Phạm Thị Ly (2015)
(Bản ngắn hơn đăng trên TTCT số ra ngày 11.9.2015)

Một bài báo đăng trên New York Times hôm 19.8.2015 vừa qua đã hé mở những thông tin ít ai chú ý khi cho biết số tiền trong Quỹ Hiến Tặng của các trường ĐH phi lợi nhuận ở Mỹ đã được sử dụng như thế nào.

Từ lâu, GDĐH đã được xem là hàng hóa công và phục vụ cho sự phát triển xã hội, sự giàu mạnh của quốc gia. Kinh tế tri thức đòi hỏi người lao động ngày càng cần được đào tạo nhiều hơn mới có thể tham gia vào thị trường lao động. Điều này đã khiến việc theo đuổi đại học về cơ bản trở thành đầu tư cho tương lai của mỗi cá nhân. Dù vậy, ý tưởng về việc GDĐH phải được xem chủ yếu là lợi ích của xã hội và do đó cần được bao cấp, vẫn là một ý tưởng chủ đạo.

Việc bao cấp cho các trường ĐH dưới nhiều hình thức khác nhau càng được củng cố mạnh mẽ hơn bằng lý tưởng “cơ hội thay đổi cuộc đời” cho tất cả mọi người. Quả thật, việc mang lại cơ hội này cho bất cứ ai có khả năng đi học, bất kể nguồn gốc xuất thân và khả năng chi trả hiện tại, có sức hấp dẫn mãnh liệt, và trong thực tế đã đem lại cho xã hội Mỹ một lực lượng lao động có kỹ năng cao, chìa khóa của giàu mạnh và thịnh vượng.

Vì vậy, “kinh doanh giáo dục” là một ý niệm có vẻ như khó chấp nhận và dường như đi ngược với sứ mạng cao cả của trường ĐH, theo quan niệm của một số người. Ở Mỹ, mặc dù trường ĐH tư đã ra đời từ lâu, hầu hết vẫn là các trường phi lợi nhuận (PLN), còn các trường vì lợi nhuận (VLN) thì thường phải hứng chịu cái nhìn thiếu thiện cảm của công chúng. Đối với công chúng Việt Nam, lý tưởng PLN gắn với ý niệm “miễn phí” và được coi như hy vọng thay đổi cuộc đời của họ.

Tuy nhiên, đó là một định kiến sai lầm.

AI CHI TRẢ CHO HOẠT ĐỘNG CỦA TRƯỜNG PLN?

Trường PLN ở Mỹ thường được hình thành từ nguồn quỹ hiến tặng của tư nhân hoặc của các tổ chức xã hội hay tôn giáo. Trong quá trình hoạt động, Trường tiếp tục dựa vào các nguồn hiến tặng, và học phí.

Khoản hiến tặng từ các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, cựu sinh viên, các quỹ thiện nguyện, v.v. tạo thành Quỹ Hiến tặng (Endownment Fund) của các trường. Với những trường danh tiếng, Quỹ này có thể lên tới vài chục tỉ đô la Mỹ, ví dụ như Harvard có 32,3 tỉ, Yale có 20,7 tỉ (6.2013).

Tuy nhiên, xét kỹ thì mặc dù quỹ hiến tặng này chủ yếu từ các nguồn tư nhân, nó không phải là một thứ cho không từ trên trời rơi xuống, mà vẫn có liên đới với nguồn lực công.

Sở dĩ truyền thống hiến tặng đặc biệt phát triển ở Hoa Kỳ, là do nhà nước có chính sách miễn thuế cho các khoản hiến tặng nhằm khích lệ đóng góp của tư nhân cho lợi ích công, và để hỗ trợ cho các trường ĐH. Không ai phủ nhận tinh thần hiến tặng cao quý của những người để lại tài sản của mình cho nhà trường như một cách đóng góp và trả ơn cho những gì tốt đẹp mà mình đã nhận được, nhưng nếu không có chính sách miễn thuế này, hẳn là người đóng góp sẽ ngần ngại hơn nhiều. Luật Mỹ đánh thuế thừa kế rất nặng (theo biểu thuế bậc thang, từ 18% đến 40% tùy giá trị tài sản), thêm vào đó là thuế di sản (có thể lên đến 35% đối với di sản trên 25 triệu USD) để làm nản lòng những người muốn “hy sinh đời bố củng cố đời con”. Vì vậy, có thể nói, khoản hiến tặng mà các trường ĐH Mỹ được hưởng thực chất là hỗ trợ của nhà nước thông qua giảm thuế. Nhà nước không thu thuế ở chỗ này thì phải thu thuế ở chỗ khác, cho nên không phải là quá lời khi nói rằng tất cả mọi người dân đóng thuế đều đang góp tiền vào cho các trường tư PLN.

Chẳng những thế, sinh viên của các trường PLN dĩ nhiên vẫn phải đóng học phí, với mức học phí không hề thấp: bình quân khoảng 46 ngàn một năm, nếu tính cả ăn ở thì khoảng 63.250 USD, trong trường hợp ĐH Yale, cao hơn nhiều so với mức trung bình của các ĐH công. Và mức học phí này không ngừng tăng. Ở Mỹ, trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay, học phí đã tăng gần 150% tức gấp năm lần so với mức lạm phát  (khoảng 32%), cả ở trường công lẫn trường tư, trường PLN lẫn VLN. Ở Việt Nam, số liệu của Tổng cục Thống kê cho biết chi phí cho giáo dục tăng suốt trong nhiều năm nay, ở mức gần gấp đôi giá tiêu dùng nói chung.  Chỉ tính từ năm 2009 đến nay thì giá dịch vụ giáo dục tăng gấp 128%, tức là bình quân năm là 15% còn giá hàng hóa nói chung chỉ tăng 59%, bình quân năm là 8%. Đó là tính chung cả công và tư và cả các cấp học. Nếu chỉ tính ở các trường đang cho rằng họ là trường PLN, thì có thể kể trường hợp của ĐH Hoa Sen, nếu năm 2006 mức học phí vào khoảng 8-9 triệu thì trong năm 2007 đã tăng đến 12-15 triệu/năm, và từ đó đến nay tiếp tục tăng. Năm 2014 mức học phí là 43- 57 triệu, gấp bốn lần so với 7 năm trước đó, bình quân mỗi năm tăng 60% trong lúc chỉ số giá tiêu dùng chỉ tăng 8%/năm.

AI HƯỞNG LỢI?

Về nguyên tắc, nguồn quỹ này được đem đi đầu tư để sinh lợi, và khoản lợi được bù đắp cho hoạt động của nhà trường. Thế nhưng trong thực tế, câu trả lời cho câu hỏi “ai được hưởng lợi” từ những nguồn này sẽ làm chúng ta phải suy nghĩ lại.

Năm ngoái, đại học Yale đã trả 480 triệu đô la Mỹ cho các nhà quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, đó là thù lao cho việc quản lý 8 tỉ đô la Mỹ, tức một phần ba Quỹ Hiến Tặng hiện nay của Yale. Tình hình cũng tương tự ở các trường ĐH Harvard, the University of Texas, Stanford và Princeton.

Trong một tỉ USD chi cho hoạt động của Yale, chỉ vỏn vẹn 170 triệu, tức 17% được dùng cho việc hỗ trợ học phí, tài trợ nghiên cứu và giải thưởng các loại. Năm 2012, Harvard tiêu 242 triệu USD cho hỗ trợ học phí và gần một tỉ USD cho chi phí quản lý các quỹ đầu tư. Năm 2014, Harvard chi cho học bổng không đến 3% của tổng chi.

Quỹ Hiến Tặng của Yale hiện nay khoảng 24 tỉ USD, tăng 50% so với năm 2009. Kenneth C. Griffin, một nhà quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm, đã cho Harvard số tiền 150 triệu USD trong năm 2014. Stephen A. Schwarzman, chủ tịch sáng lập Quỹ đầu tư chứng khoán Blackstone, một người khổng lồ trong giới tài chính, cho Yale 150 triệu USD. John A. Paulson, một nhà quản lý quỹ đầu tư chứng khoán khác, đã cho Harvard 400 triệu USD vào tháng 6 năm nay.

Mặc dù chúng ta chưa thể kết luận có những đổi chác gì phía sau các khoản hiến tặng này, nhưng có thể thấy rõ mối liên quan nổi bật giữa Quỹ Hiến Tặng của các trường PLN với giới quản lý quỹ đầu tư và chứng khoán.

Các nhà quản lý quỹ này thường được trả thù lao theo công thức 2% tổng giá trị quỹ (phí quản lý thường niên) cộng với 20% khoản lãi mà việc đầu tư nguồn quỹ này tạo ra. Nhà trường được miễn thuế, và khoản chi cho các nhà quản lý đầu tư cũng được hưởng mức thuế thu nhập thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp thông thường.

Thay vì giảm học phí, Yale thu học phí ở mức rất cao, Tổng thu học phí của Yale năm nay là 291 triệu USD. Tất nhiên Yale không phải là trường hợp cá biệt. Vấn đề là, các trường PLN đã không dùng nguồn hiến tặng để giảm học phí. Học phí ngày càng đắt đỏ và không có vẻ gì là sẽ ngừng tăng. Lý do là vì, hào quang của các trường này đủ thu hút tầng lớp tinh hoa nhất của xã hội, và sinh viên có thể vay học phí dễ dàng từ các nguồn của chính phủ.

Trong lúc đó, bộ máy quản lý ngày càng phình to ra và số giáo sư biên chế ngày càng co lại. Ở Mỹ, số giáo sư tăng 50% trong vòng 4 thập kỷ qua tương ứng với số sinh viên gia tăng, nhưng số lượng các nhà quản lý và nhân viên thì tăng một cách đáng kinh ngạc, 85% và 240% theo thứ tự. Theo Chronicle, lương bình quân của các hiệu trưởng Mỹ là 425 ngàn USD một năm. Một thống kê năm 2007 cho biết có 81 hiệu trưởng có mức lương trên nửa triệu USD, và 12 người có mức lương trên 1 triệu USD/năm. Hiện nay, Trưởng khoa có mức lương 5 chữ số là bình thường. Lưu ý là từ 1993 đến 2011, số giáo sư không biên chế đã tăng từ 57% đến 70%, theo một nghiên cứu của Hiệp hội Các Giáo sư Mỹ. Phần lớn những người này là giảng viên hợp đồng, chạy sô hết trường này tới trường khác để kiếm được chừng 24 ngàn USD một năm, một mức lương chỉ đủ không chết đói.

Kết quả của tất cả những con số này là gì? Tình hình hiện nay đã ở mức báo động: tổng nợ vay học phí của sinh viên Mỹ lên tới 1,16 ngàn tỷ USD, bằng 10% tổng nợ tiêu dùng của dân Mỹ và tỷ lệ này ngày càng tăng. 11% nợ tiền vay để đi học đang là nợ xấu và tỷ lệ này cũng đang gia tăng cùng với hiện tượng cử nhân thất nghiệp.

NGỘ NHẬN CỦA NGƯỜI HỌC VÀ LỖ HỔNG CỦA CHÍNH SÁCH

Xã hội Việt Nam nói chung và người học nói riêng thường ngộ nhận “phi lợi nhuận” với “miễn phí”, hay ít ra là tưởng rằng bao nhiêu tiền mình bỏ ra đều được dùng cho việc học tập mà không có ai khác được hưởng lợi cá nhân từ đó. Việt Nam chưa có trường PLN, và cũng chưa có văn hóa minh bạch cho nên khó đánh giá cụ thể, nhưng có thể dẫn chứng từ các trường PLN ở Mỹ: học phí ở các trường này quá cao, có thể gấp từ hai đến bốn lần so với các trường khác. Một nghiên cứu cho biết, do học phí quá cao, sinh viên thuộc tầng lớp thu nhập thấp có ít cơ hội vào các trường này: chỉ 16% sinh viên trong các trường ĐH PLN hàng đầu là thuộc dạng được hưởng hỗ trợ tài chính của chính phủ Mỹ dành cho sinh viên nghèo. Con số này ở Harvard là 11%, ở Yale là 14%, Pinceton 12%, và Stanford là 17%. Thật là ngược đời, vì Robert Reich (vốn là giáo sư UC Berkeley, Bộ Trưởng Bộ Lao động dưới thời Clinton, và là một trong mười nhân vật chính phủ có ảnh hưởng mạnh nhất trong thế kỷ 20) đã chỉ ra rằng một phần ba tiền hiến tặng thực chất là tiền miễn thuế. Dưới hình thức miễn thuế, nhà nước đã tài trợ cho mỗi sinh viên trong các trường này 50 ngàn USD một năm, trong lúc con số đó ở các trường công thông thường là 4 ngàn USD. Ai được hưởng khoản tài trợ gấp mười lần ấy? Câu trả lời là: sinh viên nhà giàu và giới quản lý của các trường này.

Ở Việt Nam, vấn đề VLN-PLN đã được đặt ra từ lâu nhưng chưa được giải quyết thỏa đáng. Nghị định 141/CP-NĐ năm 2012 và  Điều lệ Trường ĐH 2014 lần đầu tiên đã đặt ra một định nghĩa cũng như xây dựng hành lang pháp lý cho việc quản trị và vận hành trường ĐH PLN. Đó là một bước tiến lớn và khung chính sách này cần tiếp tục hoàn thiện để khích lệ các trường ĐH phát triển một cách lành mạnh.

Có hai vấn đề về mặt chính sách đối với ĐH tư cần được hoàn thiện: một là những mâu thuẫn thể hiện ngay trong một văn bản. Điều 6 Nghị định 141 nói trên nêu ra ba điều kiện để một trường tư được công nhận là không vì lợi nhuận (KVLN), thì có hai điều thuộc về tài chính: (a) chủ sở hữu nguồn vốn không nhận lợi tức, hoặc nhận lợi tức không vượt quá lãi suất trái phiếu; và (b) chênh lệch thu chi của trường là tài sản sở hữu chung hợp nhất không phân chia (…). Hai điều này mâu thuẫn với nhau: Nếu tất cả chênh lệch thu chi đều là tài sản không phân chia, thì lấy ở đâu để chi trả lợi tức cho người góp vốn?

Vả lại, đã có chia lời, dẫu ít hay nhiều, lại là chia lời theo tỉ lệ vốn góp, thì không thể coi là không vì lợi nhuận. Hơn thế nữa, Điều lệ Trường ĐH 2014 còn cho phép người góp vốn định đoạt phần vốn góp của mình bằng cách chuyển nhượng, để thừa kế, hiến tặng (Điều 23), tức vẫn là sở hữu tư nhân. Điều này trái với khái niệm KVLN trên thế giới.

Vấn đề thứ hai quan trọng hơn nhiều, là cơ chế quản trị và trách nhiệm giải trình của các trường ĐH tư KVLN. Nếu như trước đây, đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyền lực cao nhất ở cấp trường, HĐQT được bầu ra qua ĐH cổ đông theo nguyên tắc bầu dồn phiếu, nghĩa là người góp tiền nhiều hơn thì có tiếng nói mạnh hơn; thì nay thành viên góp vốn chỉ chiếm không quá 20% theo luật định, đối với các trường KVLN.

Trường KVLN không có đại hội cổ đông, mà thay vào đó là đại hội toàn trường. Tuy nhiên, khác với đại hội đồng cổ đông, đại hội toàn trường không phải là cơ quan có quyền quyết định cao nhất về mọi vấn đề của nhà trường, vì khoản 2 Điều 33 của Điều lệ cho biết: Đại hội toàn trường có quyền bầu và miễn nhiệm Ban kiểm soát (xin nhấn mạnh: không phải là bầu và miễn nhiệm HĐQT như đại hội đồng cổ đông trước đây); góp ý cho các chiến lược do HĐQT đề xuất (xin nhấn mạnh: góp ý chứ không phải quyết định). Nói cách khác, đại hội toàn trường có một vai trò rất yếu trong việc ra quyết định. Thẩm quyền chủ yếu là thuộc về Hội đồng Quản trị, như đã nêu rõ trong Khoản 1 Điều 29: “HĐQT là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà trường”.

Vậy cơ quan có quyền lực cao nhất này bao gồm những thành phần nào và được thiết lập như thế nào? Điều lệ ĐH 2014 quy định đại diện cho các thành viên góp vốn chiếm không quá 20% tổng số thành viên của hội đồng quản trị. Còn lại là thành viên đương nhiên (Hiệu Trưởng) và thành phần mặc định (tổ chức đảng, đòan thể, đại diện giảng viên) và các thành viên khác do quy chế tổ chức và hoạt động của trường quy định.

Điều này thoạt nhìn có vẻ hợp lý, nhằm tăng cường tiếng nói của các đối tượng khác nhau trong và ngoài trường, giảm nhẹ quyền quyết định của những người góp vốn.Thế nhưng cơ cấu quản trị này đã để lại một lỗ hổng lớn về trách nhiệm giải trình của HĐQT.

HĐQT của các trường tư KVLN sẽ giải trình trách nhiệm với ai, và theo cơ chế nào? Khung pháp lý hiện nay đã trao cho họ quyền quyết định tuyệt đối trong những vấn đề ở cấp trường mà không bị giám sát. Đại hội toàn trường như đã nói trên có thẩm quyền rất yếu và không thể bãi miễn HĐQT. Điều 33 của Điều lệ Trường ĐH liệt kê thành phần tham gia Đại hội toàn trường, nhưng không hề có người học và phụ huynh. Vì vậy, kể cả nếu như ĐH toàn trường có thẩm quyền bãi miễn HĐQT, thì nó cũng không đủ sức bảo vệ lợi ích của người học và của xã hội, bởi vì nó chỉ là tiếng nói của cán bộ, giảng viên, nhân viên trong trường, mà hoàn toàn thiếu vắng tiếng nói của nhân vật quan trọng nhất: người học, chính là người đã trả tiền cho toàn bộ hoạt động của nhà trường.

Một lỗ hổng khác trong chính sách, là khung pháp lý hiện hành không ngăn chặn việc thành viên HĐQT của trường KVLN đồng thời đảm nhiệm những vị trí điều hành như thành viên Ban Giám hiệu hoặc trưởng khoa, trưởng đơn vị. Việc nắm giữ hai vị trí này cùng lúc đã vô hiệu hóa hoàn toàn vai trò giám sát của HĐQT đối với hoạt động vận hành của nhà trường, và làm cho trường KVLN về thực chất trở thành “trường của HĐQT”.

HƯỚNG TỚI MỘT CHÍNH SÁCH HỢP LÝ HƠN

Trên đây chúng tôi có nhắc đến hiện tượng tăng học phí ĐH ở Việt Nam. Nói cho công bằng, không thể so sánh việc tăng học phí ở Việt Nam và ở Mỹ một cách máy móc. Bởi vì mức học phí ở Việt Nam đã được bao cấp ở mức độ vô lý đã quá lâu, đến nỗi ở nhiều trường công, mức học phí còn thấp hơn cả tiền gửi trẻ ở nhà trẻ.

Học phí ở trường tư dựa trên thỏa thuận với người học. Thực sự nếu không có cuộc cách mạng về học phí năm 2007, Trường ĐH Hoa Sen không thể nào tạo ra được chuyển biến về chất lượng như ta đã thấy. Vì vậy, vấn đề không phải là các trường đã thu bao nhiêu tiền, mà là các trường đã sử dụng đồng tiền như thế nào và mang lại một kết quả ra sao cho người học và cho xã hội.

Thật lạ lùng, người bỏ vốn xây dựng trường ĐH tư KVLN, tức thành viên góp vốn, lại có một tiếng nói rất yếu trong quá trình ra quyết định của nhà trường, còn sinh viên, những người đã bỏ tiền nuôi sống nhà trường để nhà trường có thể vận hành được, thì hoàn toàn không có một tiếng nói nào, thậm chí không được có mặt trong đại hội toàn trường. Một cơ chế như vậy làm sao có thể bảo vệ lợi ích của người học và của xã hội?

Do người góp vốn được hưởng lợi nhưng không có tiếng nói đáng kể trong cơ chế ra quyết định, theo logic tự nhiên họ phải nắm lấy quyền điều hành của nhà trường để có thể kiểm soát thu chi. Luật không cấm điều này, vì vậy, có thể nói thiết chế hiện hành đã vô tình khích lệ KVLN giả hiệu. GS. Tạ Văn Tài (Trường Luật ĐH Harvard) cho rằng nên xem người góp vốn như là “chủ nợ” và trả lãi cho họ, thay vì đưa họ vào bộ máy quản trị điều hành của nhà trường. Đề xuất này có thể hợp lý xét về nguyên tắc, nhưng trong thực tế Việt Nam hiện nay, nó sẽ dẫn đến kết quả chẳng ai bỏ vốn để xây dựng trường KVLN.

Để đảm bảo cho các trường ĐH thực hiện được sứ mạng của mình, có đóng góp tích cực cho xã hội, và đem lại cho người học một dịch vụ tương xứng với số tiền mà họ đã trả, thì hai nhân tố được xem như điều kiện tối quan trọng và cần thiết là: (1) một cơ cấu thẩm quyền có khả năng bao hàm tiếng nói của tất cả các bên liên quan khác nhau trong quá trình ra quyết định; và (2) một cơ chế giải trình trách nhiệm hữu hiệu để bảo đảm quyền lực được giám sát và cân bằng lợi ích của các bên khác nhau.

Cả hai điều kiện này đều còn thiếu trong khung pháp lý hiện hành đối với trường KVLN ở Việt Nam.

Có lẽ, một cách nhìn thực tế hơn là chúng ta không nên sa lầy vào vấn đề VLN hay KVLN. Câu hỏi về VLN và KVLN không quan trọng bằng vấn đề nhà trường đã mang lại điều gì cho người học và cho xã hội, và những giá trị ấy có xứng đáng với số tiền mà người học đã trả hay không.