Diễn Giải Ý Nghĩa Của Các Kết Quả Xếp Hạng Đại Học Toàn Cầu
KHUYẾN NGHỊ VỚI VIỆC XÂY DỰNG BẢNG XẾP HẠNG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM

Phạm Thị Ly & Vladimir Briller (2015)
(Trình bày tại Hội thảo Kiểm định Chất lượng Phân tầng Xếp hạng ĐH, do Hiệp hội các Trường ĐH-CĐ Việt Nam tổ chức ngày 08.01.2016 tại Hà Nội)

 Tóm tắt.

Bài viết trình bày những tác động của các bảng xếp hạng đại học đối với các bên liên quan của giáo dục đại học (GDĐH) bao gồm  nhà trường, giới giảng viên, người học, và giới làm chính sách. Quan sát của người viết dựa trên khảo sát tư liệu thành văn về chủ đề này cho thấy là một bộ phận trong những tác động trên đây đã hình thành từ những cách diễn giải phiến diện đối với các kết quả xếp hạng ĐH. Thêm vào đó, sự lựa chọn của người học còn bao gồm những yếu tố khác hiếm khi được coi là tiêu chí xếp hạng, như quy mô, vị trí, chi phí, v.v. Bài viết này đề xuất một cách diễn giải thận trọng hơn đối với các kết quả xếp hạng và từ đó đưa ra khuyến nghị dùng các tiêu chí xếp hạng như một công cụ chính sách để thúc đẩy các trường vận động theo hướng đáp ứng những mục tiêu mà nhà nước và xã hội mong đợi: tăng cường sự minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự chính trực của nhà trường.

Đã có nhiều bài viết nói về tác động của các bảng xếp hạng đại học (ĐH) toàn cầu đối với người học, đối với các trường, các nhà làm chính sách và công chúng, và có một nhận định chung là những tác động này ngày càng tăng mức độ. Những tác động đó sẽ mang lại kết quả như thế nào trong việc phát triển hệ thống, là điều cần được phân tích thấu đáo. Những phân tích này có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xây dựng tiêu chí cho bảng xếp hạng các trường ĐH trong nước, và cách sử dụng các kết quả xếp hạng cho việc nâng cao chất lượng hoạt động của các trường. Bài viết này thảo luận về việc diễn giải ý nghĩa của các kết quả xếp hạng, từ đó đưa ra một vài khuyến nghị cho việc xây dựng bảng xếp hạng trong nước.

Tác động của các bảng xếp hạng ĐH toàn cầu

Một nghiên cứu gần đây do Bjerke & Guhr (2012) thực hiện cho biết rằng giờ đây nhiều gia đình cứ nhất định muốn con mình phải vào học những trường ĐH có thứ hạng cao nếu không muốn nói là đứng đầu trong các bảng xếp hạng, nếu như con họ có đủ năng lực để được nhận vào.

Nhiều chính sách trong GDĐH của các nước cũng chịu ảnh hưởng của các bảng xếp hạng. Quỹ học bổng nhà nước của Nga trong Chương trình Giáo dục Toàn cầu, gồm 162 triệu USD, dành cho hàng ngàn người đi học ngoài nước, yêu cầu rằng người thụ hưởng phải được nhận vào học tại những trường được xếp hạng hàng đầu (Phil Baty, 2012). Tương tự, Chương trình Khoa học Không Biên giới của Brazil dành 2 tỉ USD cấp học bổng cho sinh viên du học, cũng dựa vào bảng xếp hạng THE để xác định những trường nào sẽ được chọn để đưa người đến học (Gardner, 2011). Hội đồng Đại học của chính phủ Ấn Độ mới đây ra quy định, chỉ có những trường có tên trong top 500 của hai bảng xếp hạng ĐH toàn cầu mới được phép liên kết đào tạo với các đối tác Ấn Độ (IBNLive, 2012). Ở Hà Lan, từ năm 2008, để được nhập cư theo dạng “lao động có kỹ năng cao”, một trong các điều kiện là ứng viên phải có bằng cấp từ những trường được công nhận của Hà Lan, hoặc từ những trường nằm trong top 200 của một trong các bảng xếp hạng THE, ARWU hay QS (Netherlands Immigration and Naturalisation Office, 2012, p. 1).

Kết quả xếp hạng cũng tác động đến việc công nhận giá trị bằng cấp. Ngày 25.04.2013, chính phủ Liên bang Nga ra quyết định số 389 cho phép công nhận bằng cấp nước ngoài có hiệu lực trên lãnh thổ Nga nếu bằng cấp đó do một trường trong danh sách top 300 của một trong các bảng xếp hạng SRC’s ARWU, QS và THE.

Việt Nam cũng không ra ngoài xu thế này. ĐH Quốc gia TP. HCM có chủ trương chỉ cho phép các trường thành viên liên kết đào tạo với những trường được kiểm định và ưu tiên xem xét hồ sơ liên kết với những trường có tên trên các bảng xếp hạng ĐH toàn cầu. Năm 2013 Thanh tra Chính phủ thực hiện thanh tra công tác quản lý nhà nước trong việc thực hiện các chương trình đào tạo liên kết với nước ngoài đã kết luận rằng trong 94 trường đối tác nước ngoài chỉ 05 trường là có thứ hạng cao, còn lại là những trường không được xếp hạng trong danh sách 12.000 trường của Webometrics[1]. Mặc dù việc sử dụng Webometrics làm cơ sở tham chiếu có thể gây tranh cãi, điều này cũng nói lên rằng các cơ quan nhà nước có ý thức sử dụng các bảng xếp hạng như một bằng chứng về chất lượng, hay đẳng cấp của các trường.

Do những tác động đó, không có gì ngạc nhiên khi các trường đang chịu một áp lực lớn từ việc xếp hạng. Các bảng xếp hạng đang đánh giá các trường vốn dĩ vô cùng đa dạng về sứ mạng, về đặc điểm quốc gia và văn hóa, về nguồn lực, bằng một bộ tiêu chí giống nhau chỉ phản ánh được một phần nhỏ những gì một trường ĐH thực sự phải là. Nếu tất cả các trường đều theo đuổi mục tiêu nâng hạng, dồn mọi nỗ lực của mình cho những hoạt động được tính đếm trong các tiêu chí xếp hạng, thì hệ quả sẽ là thủ tiêu sự đa dạng của các trường, khiến các trường trở nên những thực thể giống nhau về nội dung hoạt động và tập trung vào chỉ một số ít những khía cạnh rất hẹp của đời sống đại học. Hãy hình dung những mất mát mà cả hệ thống phải gánh chịu nếu như tất cả nguồn lực được dành chủ yếu cho việc sản xuất ra các bài báo khoa học nhằm để tính điểm xếp hạng, còn những bài báo đó có đóng góp gì cho xã hội, tạo ra những thay đổi gì trong nền kinh tế, trong năng suất, trong tiến bộ xã hội, thì không quan trọng, bởi những thứ đó không được đo lường và không được tính đến trong bất cứ bảng xếp hạng nào hiện nay. Những nỗ lực của các trường trong việc xây dựng quan hệ với thế giới việc làm, tạo ra môi trường trải nghiệm trong sinh viên và gắn bó với cộng đồng xã hội cũng sẽ không được chú trọng, vì nó không xuất hiện trong các bảng xếp hạng. Phil Baty, tổng biên tập của Bảng xếp hạng THE cho rằng một trong những điểm mạnh nhất của GDĐH toàn cầu là sự phong phú đa dạng phi thường của nó và điều này không bao giờ có thể nắm bắt được bởi bất kỳ bảng xếp hạng nào, bởi vì bảng xếp hạng nào thì cũng chỉ có thể đánh giá các trường dựa trên một bộ tiêu chí có giới hạn mà thôi[2].

Bởi lẽ đó, bản tuyên bố gần đây của Liên đoàn Hiệu Trưởng các trường ĐH Châu Mỹ Latin về xếp hạng quốc tế là một nỗ lực đáng hoan nghênh. Bản tuyên bố này lưu ý rằng “phần lớn các nhà lãnh đạo và cả công chúng đều xem các kết quả xếp hạng này là thước đo khách quan và toàn diện về chất lượng của các trường. Nhưng thực tế là không bao giờ có một bảng xếp hạng nào có thể khách quan và toàn diện”.  Tuyên ngôn này là kết luận của một hội nghị hai ngày, với sự tham dự của hiệu trưởng và lãnh đạo cấp cao của 65 trường ĐH trong 14 quốc gia châu Mỹ Latin. Họ kêu gọi các nhà làm chính sách tránh việc sử dụng kết quả xếp hạng như là một công cụ để đánh giá kết quả hoạt động của các trường, cũng như dùng kết quả xếp hạng để thiết kế chính sách cho hệ thống GDĐH, để phân bổ nguồn ngân sách, và để quyết định chính sách khen thưởng, khích lệ với các trường và với cá nhân giảng viên[3].

Liệu có phải các bảng xếp hạng ĐH toàn cầu chỉ gồm toàn những khiếm khuyết và không có ích lợi gì cho việc phát triển hệ thống, thậm chí có tác hại bởi vì nó làm lệch hướng trọng tâm mà nhà trường đáng lẽ phải theo đuổi?  Câu trả lời tùy thuộc vào cách mà chúng ta diễn giải ý nghĩa của các bảng xếp hạng và sử dụng các kết quả ấy cho những mục đích của chúng ta. “Chúng ta” ở đây bao hàm tất cả các bên liên quan của GDĐH bao gồm những người làm chính sách, các nhà quản lý, giới học thuật và công chúng.

Diễn giải ý nghĩa của các kết quả xếp hạng

Trước hết, những người sử dụng kết quả xếp hạng như một nguồn thông tin cần hiểu rất rõ về những hạn chế trong tiêu chí và phương pháp của từng bảng xếp hạng. Trước tiên là những hạn chế trong cách thu thập dữ liệu. Ngoài dữ liệu về công bố khoa học, những dữ liệu khác được dùng để xếp hạng chủ yếu là do các trường cung cấp, và rất khó kiểm chứng mức độ tin cậy. Ngay dữ liệu được cho là “khách quan” nhất, tức dữ liệu đo lường thư mục khoa học, cũng có ý kiến nghi vấn với sự khách quan của nó: dữ liệu được dùng để tính toán chỉ số tác động không hề minh bạch mà cũng không mở ra cho công chúng có thể tiếp cận[4]. Hơn thế nữa, dữ liệu đo lường thư mục không bao hàm toàn bộ những hình thức đa dạng của thành quả nghiên cứu và thành tựu trí tuệ nói chung, ví dụ đối với nghệ thuật là các tác phẩm, đối với khoa học xã hội và nhân văn là sách, báo cáo nghiên cứu, báo cáo tư vấn chính sách, đối với khoa học công nghệ là bộ dữ liệu, là các sáng kiến đổi mới, v.v. Vì vậy, cách đo lường thành tựu nghiên cứu khoa học hiện nay của tất cả các bảng xếp hạng, như đếm số giải Nobel, đếm số bài báo khoa học và số lượng trích dẫn, v.v. chỉ phản ánh một phần năng lực nghiên cứu khoa học của các trường chứ chưa nói đến những đóng góp của nhà trường đối với xã hội.

Bản thân các tổ chức xếp hạng cũng ý thức được những điểm yếu đó và đang nỗ lực cải thiện các phương pháp xếp hạng. Họ cũng hiểu rằng uy tín của một bảng xếp hạng phụ thuộc vào sự minh bạch trong phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu. Tuy vậy, trên thực tế mức độ minh bạch đó chưa đủ làm người dùng hài lòng.  Chẳng hạn, phương pháp của bảng xếp hạng QS được họ miêu tả là “các trường hàng đầu thế giới được chọn cơ bản dựa trên số trích dẫn trên mỗi bài báo, nhưng những nhân tố khác cũng sẽ được xem xét, chẳng hạn kết quả thứ hạng trong nước, kết quả khảo sát về uy tín, cân bằng vùng miền, v.v”. Tuy nhiên, không có giải thích nào thêm về việc những yếu tố được cho là “ xem xét thêm” đó đã được xem xét như thế nào.

Bởi lẽ đó, người sử dụng các kết quả xếp hạng chỉ nên xem các kết quả xếp hạng như một thông tin tham khảo. Nhất là trong một bối cảnh mà áp lực xếp hạng đã dẫn tới những hành động chẳng lấy gì làm hay, mà người ta đã phải gọi là “chợ trời học thuật”[5], nơi chỉ cần bỏ tiền ra là sẽ có tên trên một bài báo khoa học. Vô số tạp chí dỏm ra đời để thỏa mãn nhu cầu “công bố hay là chết” của giới hàn lâm trên phạm vi toàn cầu. Bản thân người viết bài này mỗi ngày nhận được hàng chục bức thư điện tử mời chào gửi bài cho các tập san từ khắp nơi trên thế giới, mà đa phần là những tập san có chất lượng đáng ngờ.

Bên cạnh việc tỉnh táo trước các kết quả xếp hạng, cũng cần nhìn nhận tác dụng tích cực của các bảng xếp hạng. Hiển nhiên là các bảng xếp hạng có thể giúp tăng cường trách nhiệm giải trình của các trường, giúp họ có ý thức định vị mình trong tương quan toàn cầu, và dùng những thông tin đối sánh mà các bảng xếp hạng có thể cung cấp để xây dựng kế hoạch chiến lược cho việc cải thiện kết quả. Các bảng kết quả càng tiến gần đến việc phản ánh đầy đủ và xác thực mức độ ưu tú thực sự của các trường chừng nào, thì nó càng có giá trị và hữu ích chừng đó. Bởi vậy, nghĩa vụ của giới hàn lâm là, một mặt giúp công chúng hiểu đúng về ý nghĩa và giới hạn của các kết quả xếp hạng, mặt khác, giúp cải thiện các bảng xếp hạng để nó có thể phục vụ tốt nhất cho nhu cầu của các bên vì tất cả các bên liên quan đều rất cần được cung cấp thông tin về hoạt động của các trường.

Khuyến nghị cho việc xây dựng hệ thống xếp hạng ĐH Việt Nam

Trước đây đã có một số thử nghiệm bước đầu xây dựng bảng xếp hạng ĐH trong nước nhưng chưa được thực hiện một cách hệ thống do nhiều khó khăn, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu. Phần này là một số khuyến nghị chúng tôi muốn đưa ra cho việc xây dựng bảng xếp hạng các trường ĐH trong nước.

Vấn đề khái niệm

Hiện nay có một số khái niệm đang bị trộn lẫn với nhau: đánh giá, bảo đảm chất lượng, kiểm định, xếp hạng, xếp loại và phân tầng. Điều này cũng dễ hiểu vì những hoạt động này có liên đới với nhau. Tuy vậy, do mục đích khác nhau, nên cách làm khác nhau, vì vậy, rất cần phân biệt rõ.

Đánh giá (evaluation and assessment), bao gồm tự đánh giá (qua hệ thống bảo đảm chất lượng- quality assurance), và đánh giá ngoài (qua hệ thống kiểm định- accreditation), cả hai đều có mục tiêu xem xét hoạt động của nhà trường trên cơ sở đối chiếu với những chuẩn mực về chất lượng, để phát hiện những chỗ cần cải thiện nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả. Vì thế, tiêu chuẩn bảo đảm chất lượng và kiểm định thường bao hàm toàn diện nhiều nhân tố, nhằm phản ánh cả đầu vào, quá trình, lẫn kết quả hoạt động. Tuy nhiên bảo đảm chất lượng thiên về xem xét quá trình và hướng tới cái tối ưu, còn kiểm định thiên về xem xét những điều kiện tối thiểu để vận hành đạt mức chất lượng chấp nhận được.

Trong khi đó xếp hạng (ranking) là một sự đánh giá từ bên ngoài nhằm so sánh kết quả hoạt động của một trường trong tương quan đối chiếu với các trường khác, để cung cấp thông tin cho các bên liên quan. Kết quả xếp hạng bao giờ cũng là một danh sách có tính thứ bậc: vị trí thứ hạng cao nghĩa là đạt được thành tích, kết quả tốt hơn. Xếp hạng thường dựa trên một số tiêu chí và phương pháp do các tổ chức xếp hạng đưa ra, do đó kết quả thứ hạng của một trường có thể rất khác nhau trong các bảng xếp hạng khác nhau. Các tiêu chí xếp hạng chủ yếu dựa trên kết quả hoạt động, hơn là các nhân tố đầu vào và đặc biệt ít lưu ý đến nhân tố quá trình.

Xếp loại (categorization) có một mục đích hoàn toàn khác với đánh giá, kiểm định và xếp hạng. Xếp loại là cơ sở của phân tầng.  Phân tầng là tái cấu trúc hệ thống nhằm tạo ra một hệ sinh thái đại học hài hòa giữa những trường có sứ mạng khác nhau, do đó có cách làm khác nhau và nhằm vào những mục tiêu cụ thể khác nhau. Xếp loại là nhằm đối chiếu những đặc trưng về bản chất của một trường khiến nó khác với những trường khác loại. Đó là một quá trình nhận biết và phân biệt các trường dựa trên tính chất, mục tiêu và cách thức vận hành của nó, chứ không phải dựa trên thành tích hoạt động.  Vì vậy, nhân tố trọng yếu nhất trong việc phân loại, không phải là đầu vào, đầu ra, mà chính là bản chất của quá trình, tức là nằm trong sứ mạng của nhà trường, nếu như ta hiểu sứ mạng không chỉ là những gì được tuyên bố mà còn thực sự chi phối hướng đi, chiến lược và hoạt động của nhà trường[6].

Sự phân biệt này có ý nghĩa rất quan trọng đối với vấn đề xếp hạng. Bởi vì xếp hạng là đối chiếu kết quả hoạt động của một trường với các trường khác, điều cốt yếu là phải so sánh những trường cùng loại với nhau. Quả là không hợp lý nếu ta đo các trường ĐH nghiên cứu và các trường cao đẳng cộng đồng với cùng một thước đo, bởi vì sứ mạng của nó khác nhau và nó cần phải nhằm vào những mục tiêu khác nhau.

Khuyến nghị thứ nhất: xếp hạng những trường cùng loại và với những thước đo thích hợp với từng loại

Vì thế, khuyến nghị của chúng tôi là các tổ chức xếp hạng Việt Nam cần thu thập dữ liệu về nhà trường một cách toàn diện hết mức có thể, và tiến hành thực hiện nhiều bảng xếp hạng khác nhau. Điều này không giống với xếp hạng đa chiều (multi-rank). Xếp hạng đa chiều chỉ khác với lối xếp hạng truyền thống ở chỗ không tính hệ số và tổng điểm, nhưng vẫn đo tất cả các loại trường với cùng một thước đo. Khuyến nghị của chúng tôi về việc xếp hạng các trường cùng loại, thực chất có ý nghĩa là những loại trường khác nhau thì cần có những thước đo khác nhau.

Cần nhấn mạnh rằng tiêu chí xếp hạng không thể đồng nhất với tiêu chí kiểm định chất lượng. Trường ĐH nghiên cứu cần được đo bằng số giải Nobel, bằng những tác giả được trích dẫn cao, bằng số bài báo khoa học, tỉ lệ trích dẫn, bằng sáng chế. Nhưng những trường định hướng giảng dạy, ứng dụng thực hành thì cần được đo bằng giá trị của những hợp đồng chuyển giao công nghệ, bằng sự tham gia và gắn kết của giới giảng viên với cộng đồng xã hội, bằng sự phong phú và mức độ gắn bó trong quan hệ với thế giới việc làm, bằng mức độ phát triển trong môi trường học tập trải nghiệm, bằng sự hài lòng của sinh viên, bằng khả năng kiếm được việc làm, bằng mức lương của sinh viên khi ra trường, bằng ý kiến đánh giá của nhà tuyển dụng, v.v. và v.v. Trường cao đẳng cộng đồng thì cần được đo bằng sự đa dạng trong thành phần người học, bằng tỉ lệ người học hoàn tất khóa học, bằng sự thăng tiến và hài lòng của người học, bằng những đóng góp cho cộng đồng địa phương trong việc nâng cao dân trí và cải thiện môi trường sống.

Bằng cách đó, chúng ta mới có một bức tranh xác thực phản ánh được chất lượng hoạt động của một trường trên cơ sở đối chiếu với sứ mạng của nó.

Khuyến nghị thứ hai: minh bạch thông tin

Điểm này tuy khó thực hiện nhưng là yếu tố cốt lõi để tạo nên uy tín và giá trị của bảng xếp hạng. Minh bạch thông tin trước hết là minh bạch về phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu. Những tiêu chí dùng cho việc xếp hạng cũng cần được giải thích đầy đủ. Trong bối cảnh Việt Nam có thể nên nghĩ tới việc kiểm định chất lượng của bảng xếp hạng[7]. Tất nhiên đó là kiểm định quốc tế. Kết quả của kiểm định xếp hạng sẽ bảo đảm cho sự khả tín của các bảng xếp hạng, mà sự khả tín ấy là điều kiện tiên quyết để nó trở thành có ích cho hệ thống.

Khuyến nghị thứ ba: về việc sử dụng kết quả xếp hạng

Bản tuyên ngôn của 65 Hiệu Trưởng các trường ĐH ở các nước Châu Mỹ Latin nêu trên đã nhận định rằng bảng xếp hạng là một hệ thống thứ bậc chứ không phải một hệ thống thông tin; nó chứa đựng nhiều định kiến thiên lệch, không thích hợp cho việc đánh giá kết quả hoạt động của một trường, và gây ra nhiều hiểu lầm sai lạc. Có một nhận thức rất phổ biến là các bảng xếp hạng có thể là nguồn cung cấp thông tin về từng trường và cả hệ thống, nhưng sự thực là các tiêu chí của bảng xếp hạng không đủ giá trị để đánh giá một trường ngay cả khi ta giới hạn việc đánh giá chỉ trong phạm vi tiêu chí đó. Vì vậy, bản tuyên ngôn khuyến cáo các nhà làm chính sách không sử dụng kết quả xếp hạng làm cơ sở đưa ra những quyết định về tái cấu trúc hệ thống hay phân bổ nguồn lực.

Tuy nhiên, các bảng xếp hạng cũng có thể góp phần tăng cường trách nhiệm giải trình của các trường và thúc đẩy các trường đi theo một hướng đi nhất định. Vì vậy cần nỗ lực xây dựng các bảng xếp hạng trong nước dựa trên những mục tiêu chiến lược dài hạn của nhà nước và phục vụ cho sự phát triển của quốc gia, dựa trên những đặc điểm của hệ thống GDĐH hiện tại và dựa trên những hình dung lý tưởng mà nhà nước nhắm đến. Ví dụ hiện trạng của hệ thống GDĐH Việt Nam là các trường thiên về đào tạo lý thuyết, thiếu gắn kết với thế giới việc làm, và việc sửa chữa nhược điểm này là đặc biệt quan trọng trong việc cải thiện hiệu quả và tính thiết yếu của nhà trường với xã hội; cho nên các bảng xếp hạng cần xây dựng những thước đo khả dĩ đánh giá được mức độ phát triển và thành tựu của các trường trong việc xây dựng quan hệ với thế giới việc làm. Khi các bảng xếp hạng trong nước có tiêu chí này, các trường sẽ giành những nguồn lực và nỗ lực cho nó và do vậy sẽ cải thiện hoạt động theo hướng mà nhà nước mong muốn.

Mặt khác, chính giới học thuật ở các trường ĐH cần góp phần lên tiếng trên mọi phương tiện truyền thông để giúp định hình một thái độ đúng đắn với việc sử dụng các kết quả xếp hạng như một nguồn thông tin tham khảo. Từ khóa ở đây là “đọc kỹ hướng dẫn trước khi sử dụng”, hoặc “cẩn thận hàng dễ vỡ”[8].

Thông qua việc xây dựng các bảng xếp hạng, nhà nước và giới học thuật cần nỗ lực xây dựng cơ sở dữ liệu mở về các trường, bao gồm những thông tin được thu thập một cách có hệ thống, với những phương pháp đáng tin cậy. Dữ liệu này là nền tảng cho những phân tích giúp hiểu rõ những thách thức và cơ hội của từng trường và của cả hệ thống; và là cơ sở cho những chính sách khôn ngoan, nhằm vào những tác động dài hạn của cả hệ thống GDĐH.

Kết luận

Về mặt nào đó xếp hạng ĐH có thể xem là một con dao hai lưỡi. Nó có thể củng cố thêm những cách hiểu sai lạc, kích thích bệnh thành tích, làm lạc hướng sứ mạng và trọng tâm hoạt động của nhà trường. Nó cũng có thể được sử dụng như một công cụ tăng cường trách nhiệm giải trình và hướng các trường đi theo những trọng tâm mà nhà nước mong muốn. Tất cả các bên liên quan của GDĐH, bao gồm người làm chính sách, các nhà quản lý, giới hàn lâm, giới doanh nghiệp, người học và công chúng, đều có vai trò trong việc biến xếp hạng thành một hiện tượng tiêu cực hay một công cụ tích cực, trong đó trách nhiệm nặng nề nhất thuộc về giới học thuật. Với tư cách là cột trụ tinh thần của xã hội, trường ĐH cần phải đóng vai trò dẫn dắt sự phát triển tích cực của các bảng xếp hạng và không thỏa hiệp với những ý định biến bảng xếp hạng thành một công cụ thỏa mãn những mục tiêu ngắn hạn tức thời nếu nó không phù hợp với lợi ích lâu dài của xã hội, vì điều đó trái với bản chất và sứ mạng thực sự của một trường ĐH.

Tư liệu tham khảo

Baty, P. (2012b), “Rankings don’t tell the whole story – Handle them with care”, University World News Global Edition, 227, 26 June. Retrieved Jan 29, 2015 from: http://www.universityworldnews.com/article.php?story=20120626171938451

Bjerke, C.H., & Guhr, D.J. (2012), “A View on Existing Rankings and the Introduction of U-Multirank in the Light of Students as Key Rankings Stakeholder”, The Academic Rankings and Advancement of Higher Education: Lessons from Asia and Other Regions, Proceedings, IREG-6 Conference (Taipei, Taiwan, 19-20 April), Higher Education Evaluation and Accreditation Council of Taiwan, pp. 259-266.

Gardner, E. (2011), “Brazil promises 75,000 scholarships in science and technology”, Nature, 4 August 2011. Truy cập ngày 11.02.2015 tại

http://www.nature.com/news/2011/110804/full/news.2011.458.html

IBNLive (2012), “UGC to allow only top 500 foreign universities to enter India”, IBN Live, 3 June. Truy cập ngày 11.02.2015 tại http://content.ibnlive.in.com/article/03-Jun-2012india/ugc-to-allow-only-top-500-foreign-univs-in-india-263954-3.html

Ghi chú
[1] Thông báo Kết luận Thanh tra số 97/TBKL-TTCP ngày 10.01.2013 của Thanh tra Chính phủ.

[2] Baty, P. (2012b), “Rankings don’t tell the whole story – Handle them with care”, University World News Global Edition, 227, 26 June

[3] Xem toàn văn bản tuyên bố tại đây: http://www.encuentro-rankings.unam.mx/Documentos/Final-declaration-english.pdf

[4] Nguồn: Vanclay, J.K. (2012) Impact Factor: Outdated artefact or stepping-stone to journal certification. Scientometric 92, 211–238. ; The PLoS Medicine Editors (2006). The impact factor game. PLoS Med 3(6): e291doi:10.1371/journal.pmed.0030291;  Rossner, M., Van Epps, H., Hill, E. (2007). Show me the data. J. Cell Biol. 179, 1091–1092; Rossner M., Van Epps H., and Hill E. (2008). Irreproducible results: A response to Thomson Scientific. J. Cell Biol. 180, 254–255.

[5] Nguồn: Mara Hvistendahl (2013). China’s Publication Bazaar. Science 29 November 2013: Vol. 342 no. 6162 pp. 1035-1039DOI: 10.1126/science.342.6162.1035  http://www.marahvistendahl.com/gaming-academia/

[6] Phần phân biệt các khái niệm này chủ yếu dựa trên một bài viết của tác giả đã công bố trước đây và có bổ sung điều chỉnh. Nguồn: Phạm Thị Ly (2014). Sẽ khởi động thị trường thứ hạng? Tuổi Trẻ Cuối Tuần số ra ngày 14.10.2014.

[7] Xem thêm Phạm Thị Ly (2015). Những bước phát triển mới trong quan niệm và phương pháp xếp hạng ĐH toàn cầu.

[8] Từ này mượn của Phil Baty (2012): “Rankings don’t tell the whole story – Handle them with care”.