BẢNG XẾP HẠNG 49 TRƯỜNG ĐH VIỆT NAM LẦN ĐẦU CÔNG BỐ: MỪNG HAY LO?

Phạm Thị Ly (2017)
Bài đăng báo Tia Sáng số ra ngày 15.09.2017

Cũng giống như tất cả các bảng xếp hạng khác trên thế giới, bảng xếp hạng 49 trường ĐH của Việt Nam do TS. Giáp Văn Dương khởi xướng với sự cộng tác của một nhóm chuyên gia độc lập, khi công bố đã gây ra nhiều dư luận trái chiều.

Sinh viên và phụ huynh, đối tượng chính mà các bảng xếp hạng này nhắm tới, là những người ít quan tâm chú ý tới phương pháp và tiêu chí xếp hạng, mà chỉ nhìn vào thứ hạng cao thấp của trường này hay trường khác, và mặc định là trường nào có thứ hạng cao hơn tức là tốt hơn, bất chấp một sự thật là ngay cả những trường tốt nhất thế giới cũng không thể tốt nhất về tất cả mọi mặt.

Chính vì thế, đã từ lâu, các bảng xếp hạng đã đi quá xa khỏi mục tiêu ban đầu của nó là cung cấp thông tin cho người học, giờ đây nó đã trở thành chủ yếu là một phương tiện tiếp thị để thu hút người học và các nguồn đầu tư hay tài trợ.

Khi giáo dục đã thực sự trở thành một thị trường, thì tiếp thị cũng là điều bình thường, không phải cái gì xấu xa đáng chê trách. Tuy vậy, vấn đề là, đạo đức kinh doanh đòi hỏi chúng ta chỉ có thể quảng cáo cho những giá trị mà mình thực sự có. Nếu không, nó sẽ là đánh lừa người mua. Như thế nghĩa là, có ba vấn đề đặt ra với các bảng xếp hạng: (1) Thứ hạng trong các bảng xếp hạng phản ánh đúng đến mức độ nào chất lượng hoạt động của nhà trường; (2) Chúng ta phải diễn giải ý nghĩa các kết quả ấy như thế nào cho đúng?; và cuối cùng (3) các bảng xếp hạng đem lại tác động, ý nghĩa gì cho xã hội nói chung và người học nói riêng?

KẾT QUẢ XẾP HẠNG ĐÁNG TIN CẬY TỚI MỨC ĐỘ NÀO?

Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải xác định rõ, các bảng xếp hạng dự định đo cái gì, bằng cách nào, dựa trên nguồn dữ liệu từ đâu và có chất lượng như thế nào. Nói cách khác, tính khả tín của nó phụ thuộc vào tiêu chí xếp hạng, phương pháp thu thập xử lý dữ liệu và chất lượng nguồn dữ liệu.

Về các tiêu chí xếp hạng

 Trên thế giới, mỗi bảng xếp hạng có một bộ tiêu chí khác nhau, các tiêu chí và thước đo của mỗi bảng cũng không ngừng được thay đổi, cải thiện từ năm này qua năm khác. Các tiêu chí phổ biến là thành tích nghiên cứu khoa học (đo bằng giải Nobel/Fields, số bài báo khoa học có bình duyệt trong danh mục ISI/Scopus/ số trích dẫn tính trên đầu giảng viên, số bằng sáng chế…); kết quả/chất lượng đào tạo (số giảng viên có bằng tiến sĩ, số nghiên cứu sinh hay bằng tiến sĩ đã cấp hàng năm); mức độ quốc tế hóa (số sinh viên/giảng viên nước ngoài,v.v.), hoặc tiêu chí chung nhất là uy tín của nhà trường (đánh giá qua ý kiến của người trong ngành). Những tiêu chí này phản ánh hai nhiệm vụ truyền thống của nhà trường là nghiên cứu và đào tạo. Thực ra, nhiệm vụ thứ ba của nhà trường là phục vụ cộng đồng đang ngày càng được nhấn mạnh, nhưng đã rất ít được đề cập đến trong các bảng xếp hạng. Lý do có thể là vì nó không dễ đo lường.

Đã có vô số bài viết chỉ ra những chỗ bất cập trong các tiêu chí nói trên. Một nhược điểm quan trọng, là nó đã đo các trường ĐH vốn cực kỳ đa dạng về trọng tâm sứ mạng bằng một thước đo chung, vì thế nó đã không thể hiện được những thành tựu quan trọng khác của nhà trường nếu những thành tựu đó không được nêu ra và tính đếm qua các tiêu chí xếp hạng. Ví dụ tỉ lệ sinh viên có việc làm, mức lương bình quân của sinh viên sau khi ra trường ba năm, những đóng góp của nhà trường trong việc cải thiện hiệu quả hoạt động kinh tế của địa phương và trong việc phát triển xã hội, v.v. Vì thế, chạy theo những tiêu chí nghèo nàn của các bảng xếp hạng, các trường sẽ sao nhãng những sứ mệnh quan trọng khác, sẽ trở thành đồng phục, làm mất đi sự đa dạng vốn là bản chất và sức mạnh của hệ thống đại học.

Bảng xếp hạng 49 trường Việt Nam trên đây đã đề xuất ra 3 nhóm tiêu chí như sau:

  • về nghiên cứu khoa học bao gồm quy mô (số bài báo), ảnh hưởng (số trích dẫn), và năng suất (tỉ lệ bài báo trên giảng viên).
  • (ii) Về chất lượng giảng dạy đào tạo, bao gồm quy mô (số SV); trình độ giảng viên (số Gv có bằng tiến sĩ); chất lượng đào tạo (tỉ lệ GV có bằng tiến sĩ/sinh viên); chất lượng sinh viên (điểm đầu vào)
  • Cơ sở vật chất và quản trị, bao gồm giảng đường (số m2 trên SV) thư viện (số đầu sách/SV); chất lượng quản trị (đo bằng chỉ số minh bạch thông tin).

Các tiêu chí này nhìn chung là những tiêu chí “truyền thống”, “cổ điển” của các bảng xếp hạng trên thế giới. Có hai tiêu chí mới không thấy trong các bảng xếp hạng quốc tế là điểm đầu vào của sinh viên, và chỉ số minh bạch trong quản trị nhà trường. Đây là hai tiêu chí rất “đặc thù Việt Nam”.

Điểm đầu vào của sinh viên, về nguyên tắc, thể hiện mức độ cạnh tranh để vào trường, và nói lên uy tín, chất lượng đào tạo của trường. Điểm đầu vào càng lớn chứng tỏ trường ấy càng đáng được mơ ước, và thường là những trường có chất lượng tốt mới được người ta mơ ước như vậy. Thêm nữa, điểm đầu vào cao cũng cho thấy học sinh vào trường là những người xuất sắc, và rõ ràng là chất lượng đầu vào của người học góp phần quan trọng trong chất lượng đầu ra. Tiêu chí này xem ra có vẻ rất hợp lý.

Đáng tiếc là điều này không đúng ở Việt Nam. Ai cũng biết điểm chuẩn 30,5/30 để vào trường an ninh/ quân đội trong năm qua và điều này chỉ thể hiện “mức độ đáng mơ ước” chứ không thể hiện chất lượng đào tạo của trường. Nhận xét này dựa trên cách hiểu về “chất lượng đào tạo” như là năng lực sáng tạo đổi mới và khởi nghiệp, kỹ năng học tập suốt đời, phẩm chất công dân và khả năng đóng góp cho xã hội. Mơ ước làm công an cũng không có gì sai trái, nhưng nếu những học sinh giỏi nhất chỉ mơ ước làm công an, thì xã hội ấy có vấn đề. Vì trường an ninh/quân đội chỉ đào tạo ra những người bảo vệ trật tự xã hội, chứ không đào tạo ra những người sáng tạo ra của cải vật chất tinh thần cho xã hội.

Chỉ số minh bạch là điều đáng lưu ý. Về nguyên tắc, chỉ số minh bạch có thể là một biểu hiện của quản trị tốt, tuy không phải là tất cả. Tuy nhiên,  vấn đề là chỉ số minh bạch của các trường đã được đo bằng cách nào. Theo nhóm tác giả cho biết, chỉ số minh bạch này dựa trên một kết quả nghiên cứu trước đó của Ngân hàng Thế giới, đo bằng mức độ đáp ứng của trường với các quy định của nhà nước về những thông tin phải được nêu công khai. Trong bối cảnh Việt Nam, nếu có thể minh bạch được cách đo minh bạch để thúc đẩy sự minh bạch thì đó là điều đáng khích lệ. Tuy vậy, tiếc là thước đo minh bạch như đã nói trên còn khá thô sơ, vì nó không đo được sự khả tín của những thông tin được nêu công khai. Cũng cần lưu ý là minh bạch chỉ là một yếu tố trong chất lượng quản trị. Yếu tố cốt lõi trong chất lượng quản trị là cơ cấu trao quyền và sự tham gia của các bên khác nhau trong quá trình ra quyết định.

Nhưng có lẽ, tiêu chí có vấn đề nhất là quy mô. Thật là khó mà thuyết phục giới chuyên môn rằng quy mô lại có tương quan tỉ lệ thuận với chất lượng giáo dục và đào tạo trong bối cảnh của Việt Nam. Với một trọng số thích hợp, tiêu chí này có thể sẽ đưa các “lò ấp tiến sĩ” hoặc những trường hoạt động gần như một cỗ máy bán bằng lên vị trí hàng đầu về chất lượng giáo dục đào tạo. Về mặt khác, vì các ĐH Quốc gia được xem như một đơn vị bao gồm các trường thành viên, họ có ưu thế tuyệt đối về mặt quy mô. Quả là vô lý khi so sánh ĐH Quốc gia Hà Nội hay HCM với một trường đơn ngành nào đó về quy mô và dẫn đến kết luận về chất lượng đào tạo.

Vấn đề trọng số

Trọng số cho các tiêu chí là cách làm phổ biến và truyền thống của các bảng xếp hạng trên thế giới. Tuy vậy, do bị phản đối dữ dội nên các bảng xếp hạng ra đời sau này ít dùng tới trọng số để xếp hạng chung. Trọng số thể hiện mức độ nhấn mạnh của chúng ta đối với một số yếu tố được xem là cốt lõi tạo ra chất lượng hoạt động của trường. Ví dụ như xếp hạng Thượng Hải nhấn mạnh nghiên cứu, còn THES thì nhấn mạnh vào uy tín chung của trường.

Trọng số bị phản đối là vì nó chủ quan và vì nó tạo ra một khuôn mẫu đồng nhất cho các trường có sứ mệnh khác nhau. Ai cũng biết nghiên cứu là chức năng, vai trò, nhiệm vụ cốt lõi của trường ĐH, nhưng nếu một hệ thống ĐH chỉ gồm các trường nghiên cứu và chỉ đào tạo ra những người nghiên cứu chuyên nghiệp, thì rõ ràng là hệ thống đó không đáp ứng được nhu cầu vốn đa dạng hơn nhiều của cuộc sống. Chúng ta không chỉ cần những người tìm kiếm tri thức mới, mà còn cần những người biến kiến thức đó thành những sản phẩm, hoạt động, dịch vụ đa dạng của đời sống, những người thực thi nghề nghiệp một cách thành thạo.

Vì thế, nếu trọng số được ấn định dựa trên sứ mạng của trường, thì có thể dễ được chấp nhận hơn. Nếu nhà trường tự xác định sứ mạng của mình là nghiên cứu, mà quy mô, tác động, năng suất nghiên cứu của trường quá khiêm tốn thì rõ ràng là rất khó biện minh. Nhưng nếu nhà trường không coi nghiên cứu là sứ mạng cốt lõi của mình, mà coi nghiên cứu chủ yếu là nhằm cập nhật kiến thức để phục vụ việc đào tạo, thì việc không tập trung nguồn lực cho hoạt động nghiên cứu và không có nhiều sản phẩm nghiên cứu phải được coi là bình thường, hợp lý, và không thể nói rằng một trường như thế là kém chất lượng và đáng phải đứng ở cuối bảng. Một kết quả xếp hạng không gắn với sứ mệnh đa dạng của trường sẽ làm cho công chúng hiểu sai về giá trị đóng góp của nhà trường và làm lệch hướng con đường lẽ ra mỗi trường nên đi.

Về chất lượng dữ liệu

Chất lượng dữ liệu là một trong những lý do chính gây quan ngại đối với bảng xếp hạng 49 trường này. Theo nhóm tác giả, nguồn dữ liệu dùng để xếp hạng lấy từ nhiều nguồn, trong đó ngoài dữ liệu công bố quốc tế thì chủ yếu là do các trường cung cấp, và không ai kiểm chứng được tính xác thực của những thông tin đó. Các bảng xếp hạng quốc tế cũng dựa trên dữ liệu do các trường cung cấp, nhưng ở các nước phát triển, do trách nhiệm giải trình và tính minh bạch được đề cao, các trường thường không làm giả số liệu một cách trắng trợn, mà thường tìm những cách khéo léo hơn để tạo ra con số đẹp. Ví dụ, để có tỉ lệ bài báo trên giảng viên hay số tiến sĩ cao hơn, người ta không tính giảng viên đang làm việc theo chế độ hợp đồng (vốn có thể chiếm hơn nửa tổng số giảng viên).

Ở Việt Nam, theo một chuyên gia kiểm định chất lượng, phải rất ngây thơ mới dựa vào báo cáo ba công khai để xếp hạng. Ngay cả các báo cáo tự đánh giá hoặc báo cáo kiểm định của các trung tâm kiểm định, vốn kèm theo dày đặc các loại minh chứng, mà tính khả tín còn có mức độ, thì những con số tự kê khai đó quả đáng ngờ. Đó là lý do khiến một số kết quả xếp hạng gây bất ngờ cho những người trong giới, chẳng hạn như ĐH Bách Khoa Hà Nội xếp thứ 25 về cơ sở vật chất, trong lúc ai cũng thấy nó tốt hơn nhiều so với những trường được xếp hạng cao hơn.

MỪNG HAY LO?

Trước hết, chúng ta có thể nhìn nhận việc ra đời một bảng xếp hạng độc lập là một tín hiệu đáng mừng. Kết quả xếp hạng dù có chủ ý hay không cũng là trò chơi của giới quản lý, và thông tin xếp hạng dĩ nhiên là rất nhạy cảm trong bối cảnh cạnh tranh trên thị trường GD ĐH Việt Nam ngày càng quyết liệt.

Trong cơn sốt ý kiến trái chiều về bảng xếp hạng 49 trường này, người ủng hộ kẻ phản đối, và không ít ý kiến chỉ trích khắc nghiệt, những là tiêu chí hay phương pháp có vấn đề, những là kết quả sai lạc, gây rối loạn xã hội, v.v. liệu chúng ta có nên lo lắng?

Trong một xã hội trưởng thành, quan điểm khác nhau là điều hết sức bình thường, và chúng ta nên khích lệ sự cọ xát những ý kiến trái chiều. Tuy chưa thực sự có một cộng đồng học thuật vững mạnh, nhưng nhờ vào hội nhập toàn cầu và tiến bộ của công nghệ truyền thông, chúng ta đã và đang có một sân chơi cho nhiều tiếng nói tham gia hơn, và nếu có những bảng xếp hạng không dựa trên một nền tảng vững chắc, không dựa trên những phương pháp thuyết phục, nó sẽ được hàng trăm, hàng ngàn người chỉ ra chỗ khiếm khuyết ngay tức khắc. Những gì đang diễn ra với bảng xếp hạng 49 trường này đã minh họa cho điều vừa nói.

Không có cách nào khác, là mỗi người phải tự học cách làm chủ những thông tin mà mình có, tự mình đánh giá những luận điểm nào là đáng tin cậy hoặc không. Đó là thử thách của một xã hội trong đó người dân có quyền được thông tin. Sẽ có những lệch lạc, có người bị thiệt thòi, có những tác động không mong muốn, nhưng đó là cái giá để chúng ta tiến tới một xã hội trưởng thành, trong đó quyền được thông tin của người dân được bảo đảm.

Vì thế, chúng ta hoan nghênh nỗ lực của nhóm tác giả và chào mừng sự ra đời của bảng xếp hạng 49 trường ĐH Việt Nam với tất cả những khiếm khuyết của nó. Hy vọng năm sau chúng ta sẽ nhìn thấy những tiêu chí được cải tiến và những dữ liệu đáng tin cậy hơn.