Phạm Thị Ly (2016)
Bài đăng báo Nhân Dân Cuối Tuần ngày 22.01.2016

 Phân tầng thực chất là tái cấu trúc hệ thống giáo dục đại học (GDĐH), còn xếp hạng là nhằm minh bạch về chất lượng của các trường trước công chúng. Đây thực chất là một bài toán về quản trị hệ thống. Vấn đề đặt ra là, chúng ta phải làm sao để xây dựng một hệ sinh thái đại học phong phú, ở đó các trường sẽ có sứ mạng và đặc điểm khác nhau nhằm bổ sung cho nhau và đáp ứng tốt nhất nhu cầu đa dạng của xã hội?

 Những bất cập về chính sách

Có thể tóm tắt hiện trạng hệ thống GDĐH Việt Nam hiện nay bằng ba nghịch lý, thoạt nhìn ta thấy rất mâu thuẫn: Một, số trường tính trên tổng số dân vẫn còn thấp so với các nước, nhưng chúng ta vẫn có cảm tưởng đang có quá nhiều trường, là do hiện tượng thiếu nguồn tuyển; ngoại trừ một số ít trường “hot”, hầu hết các trường công nhóm dưới và trường tư đang phải cạnh tranh quyết liệt để giành thí sinh. Hai, số người vào ĐH dù đã tăng rất đáng kể nhưng vẫn còn thấp so với các nước, thế nhưng tỉ lệ người có bằng ĐH và thất nghiệp lại đang không ngừng tăng. Ba, tuy nhiều cử nhân thất nghiệp nhưng các doanh nghiệp vẫn thiếu người làm được việc. Ba nghịch lý trên cho thấy đang có một khoảng cách khá xa giữa những gì các trường đang làm, và những gì xã hội thật sự cần.

Đó là hệ quả trực tiếp từ việc phát triển tự phát của hệ thống GDĐH trong hai thập kỷ qua. Sự phát triển tự phát đó đã dẫn tới một hiện tượng ngược đời là hệ thống ĐH của Việt Nam vừa thừa vừa thiếu. Hệ thống hiện tại không có tính đa dạng cần có: tuy nhiều trường, nhưng trường nào cũng vận hành trong một khung pháp lý và quy định xét về bản chất là như nhau, với những quy tắc và động lực giống nhau; mục tiêu, chiến lược, mô hình hoạt động và cách hành xử không mấy khác nhau. Kết quả là, các trường tạo ra những “sản phẩm” na ná như nhau.

Nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài, khoảng cách giữa trường ĐH và nhu cầu cuộc sống sẽ giãn ra ngày càng xa, cùng với đó là sự lạc hậu của chất lượng nguồn nhân lực. Vì thế, tái cấu trúc hệ thống GDĐH là một vấn đề đang được đặt ra, cấp thiết.

Trước đòi hỏi của thực tế, mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định 73/2015/NĐ-CP (có hiệu lực thi hành từ 25-10-2015) Quy định tiêu chuẩn phân tầng, khung xếp hạng và tiêu chuẩn xếp hạng cơ sở GDĐH, nhằm sắp xếp lại hệ thống GDĐH. Nghị định này đã đưa ra những tiêu chí cụ thể của từng loại trường (Nghiên cứu, Ứng dụng và Thực hành), dựa vào đó các trường thực hiện kiểm định và đề xuất kết quả tự đánh giá, phân loại. Bước tiếp theo là, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) sẽ thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ công nhận. Nghị định nêu rõ, phân tầng thực hiện theo chu kỳ 10 năm, còn xếp hạng thì 2 năm một lần. Những điều này cho thấy, Bộ GD-ĐT đang chọn cách tiếp cận theo lối quản lý hành chính, và từ trên xuống. Mặc dù dựa trên những tiêu chí khách quan và công khai, nhưng việc đánh giá hiện trạng được thực hiện thông qua một tổ chức do Bộ chỉ định, và kết quả phải do Chính phủ phê duyệt đã gợi ra ít nhiều tính chất “xin-cho”, một cách làm khá xa lạ với thế giới.

Nghị định 73 đã cung cấp hướng dẫn kỹ thuật và tiêu chí, quy trình để thực hiện phân tầng và xếp hạng; nhưng lại không cho biết bất cứ một hướng đi chính sách nào để các trường căn cứ vào đó quyết định mình nên chọn con đường nào để đi.

Nhiều ý kiến đã bày tỏ băn khoăn khi Nghị định 73 đã chọn giải pháp đơn giản và dễ làm nhất là trộn lẫn các tiêu chí dùng để phân tầng và tiêu chí dùng để xếp hạng, hay nói cách khác là dùng chính những tiêu chí phân tầng để xếp hạng dựa trên sự khác nhau về lượng. Điều này rất không hợp lý, bởi phân tầng và xếp hạng có mục đích khác nhau, cho nên tiêu chí và cách làm cũng phải khác nhau.

Hệ quả là, việc phân tầng (đúng ra nên gọi là phân loại) đáng lẽ phải dựa trên sứ mạng thì trở nên một cuộc chạy đua về cương vị cao thấp trong hệ thống; vì ai cũng nghĩ là trường ĐH nghiên cứu thì có cương vị cao hơn, có uy tín và danh tiếng hơn, và được nhà nước đầu tư nhiều hơn so với ĐH ứng dụng và thực hành. Điều này dẫn tới một tâm lý, có thể sẽ khiến nhiều trường chọn con đường tắt, là mua thành tích hay làm giả số liệu, thay vì tập trung cho sứ mạng cốt lõi của mình.

Thách thức tái cấu trúc

 Vì thế, để giải quyết bài toán phân tầng, điều quan trọng trước hết là tách nó ra khỏi vấn đề xếp hạng.

Phân tầng nhằm mục đích tạo ra một hệ thống đa dạng nhiều loại trường khác nhau để đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội, vì thế nhà nước cần có chính sách thích hợp với từng loại trường, dựa vào những chính sách đó các trường sẽ tự lựa chọn con đường và sứ mạng của mình dựa trên đặc điểm mạnh yếu riêng của mỗi trường.

Vấn đề là chính sách đó phải như thế nào để nhà nước đạt được mục tiêu. Bao nhiêu trường nghiên cứu, hay ứng dụng, hay thực hành là đủ, và phải có chính sách gì để các trường hiện nay lựa chọn con đường phù hợp với bức tranh mà nhà nước hình dung, là một câu hỏi không dễ trả lời, và phải được trả lời trên cơ sở nghiên cứu khoa học.

Áp dụng các tiêu chí của từng tầng nêu trong NĐ 73 cho các trường, chúng ta có thể có được bức tranh hiện trạng của hệ thống, với điều kiện dữ liệu của các trường được xem là đáng tin cậy. Trên cơ sở dữ liệu này, nhà nước xem xét đối chiếu hiện trạng với mục đích mong muốn của mình, xác định khoảng cách cụ thể giữa cái đang có và cái muốn có, để xác định cần khích lệ cái gì và khích lệ như thế nào.

Về nguyên tắc, tất cả các loại trường đều cần được khích lệ, tuy rằng cơ chế, cách thức khích lệ phải khác nhau đối với mỗi loại trường. Có một vấn đề đáng bàn, là khích lệ bằng đòn bẩy tài chính liệu có nên hay không. Thoạt nghe điều này có vẻ có lý, nói nôm na là làm tốt thì được khen thưởng bằng nguồn tài trợ dồi dào hơn nhằm kích thích hiệu quả hoạt động. Tuy vậy, chúng tôi e rằng trong GDĐH nguyên tắc này cần cân nhắc thận trọng hơn để tránh tình trạng nước chảy chỗ trũng: trường mạnh, có thêm kinh phí càng thêm mạnh, khiến các trường yếu khó lòng cạnh tranh và vươn lên được. Có lẽ một giải pháp thích hợp hơn là tài trợ dựa trên mục tiêu và có thước đo rõ ràng.

Ở các nước châu Âu, nhà nước thường không chọn cách tiếp cận từ trên xuống, tức là không áp đặt sứ mạng cho các trường. Bản thân việc ủy thác vai trò và cương vị khác nhau cho từng trường là một việc khó khăn, và đặc biệt là làm cách nào để giữ được sự quân bình của hệ thống; tránh tình trạng trường nào cũng chạy đua để trở thành trường ĐH nghiên cứu tạo ra hiện tượng lạc hướng về sứ mạng. Thách thức đối với những người làm chính sách là giữ được tương quan hợp lý giữa việc đầu tư cho một số đỉnh cao đồng thời duy trì được nguồn lực để phát triển hệ thống theo chiều rộng nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của quốc gia.

Sở dĩ cần đặt vấn đề về tái cấu trúc hệ thống là vì, thứ nhất, thế giới đang thay đổi cách nhìn nhận đối với việc đánh giá GDĐH, thay cho đánh giá thành tích từng trường, hiện nay đang có xu hướng nhìn nhận kết quả và tác động mà cả hệ thống tạo ra. U21 chẳng hạn, là bảng xếp hạng hệ thống giáo dục các nước theo quan điểm như vậy. Hai là, chúng ta đều biết rằng thế giới đang ngày càng trở nên tương thuộc, sự phát triển lành mạnh của từng trường không thể tách rời bối cảnh chính sách của cả hệ thống. Vì vậy, tạo ra một hệ sinh thái đại học đa dạng thực chất có nghĩa là tạo ra những con đường khác nhau, những khoảng không gian khác nhau để mọi loại trường đều có thể tìm thấy chỗ đứng và phát triển lớn mạnh, vì sự đa dạng đó chính là cái mà chúng ta cần.

Cách phân tầng xếp hạng chỉ nhằm mục đích xác định cương vị của trường, phản ánh lối tư duy chạy theo thành tích, chú trọng sự hào nhoáng bề ngoài của các nhà quản lý cả ở cấp trường lẫn cấp hệ thống. Trong lúc đó, cái mà chúng ta cần là lối tư duy xem GDĐH như một dịch vụ chuyên nghiệp và nhằm vào những kết quả thực tế mà nó mang lại cho người học, bởi vì chính lối tư duy này mới có thể tạo ra thay đổi về chất lượng.

Để có thể sắp xếp lại hệ thống GDĐH theo hướng hợp lý hơn và đa dạng hơn, cần có những chính sách khích lệ phù hợp cho tất cả các loại trường để các trường tự lựa chọn sứ mạng của mình. Có thể kết hợp cách tiếp cận từ trên xuống với những cách khác từ dưới lên, nhằm làm giảm nhẹ việc hành chính hóa, và nhất là, để việc phân loại các trường gắn chặt với sứ mạng của từng trường và động lực tự thân của họ. Vì xét cho cùng, phân loại là dựa trên sứ mạng, và sứ mạng chỉ có ý nghĩa khi nó không chỉ là một lời tuyên bố, mà chi phối toàn bộ kế hoạch chiến lược và cách thức vận hành nhà trường. Đó mới là thách thức lớn phải vượt qua để tạo ra sự thay đổi về chất lượng.