Phạm Thị Ly (2016)
Đăng báo Người Lao Động ngày 10.10.2016

Cải cách quản trị ĐH trong vài năm gần đây được coi là một trọng tâm chính sách của nhà nước nhằm thúc đẩy đổi mới, và tự chủ là vấn đề nằm ở tâm điểm của quản trị. Cho đến nay, có hai luồng ý kiến trái nhau trong giới nghiên cứu trong và ngoài nước khi nhận định về mức độ tự chủ của các trường ĐH Việt Nam: giới nghiên cứu và quản lý trong nước cho rằng cần phải tiếp tục mở rộng tự chủ vì đó là nút thắt cản trở sáng kiến và sự phát triển của các trường, trong lúc giới quan sát ngoài nước thì cho rằng trong nhiều lĩnh vực, quyền hạn của hiệu trưởng ĐH ở Việt Nam là thứ nằm mơ các hiệu trưởng phương Tây cũng chẳng có. Cả hai luồng ý kiến đó đều có cơ sở, vì nó đề cập tới những khía cạnh khác nhau của tự chủ.

Nhưng điều lạ lùng là, măc dù các trường kêu gọi được trao thêm quyền tự chủ, và giới lãnh đạo, trong các phát biểu của họ, luôn ủng hộ việc giao quyền tự chủ, nhưng cho đến nay, mới chỉ có 14 trường ĐH công có đề án tự chủ và được phê duyệt, theo đó, các trường sẽ không nhận ngân sách chi thường xuyên từ Nhà nước mà sẽ tự hạch toán thu – chi. Gần 180 trường công còn lại, thì sao? Vì sao họ còn ngần ngại?

Tự chủ có ý nghĩa gì?

Đã có nhiều ý kiến nêu lên một thực tế là cho tới nay, khi nói tới tự chủ, chúng ta mới chỉ chủ yếu nói tới tự chủ về tài chính, mà thực chất là giảm nguồn chi từ ngân sách và để các trường công xoay xở vận hành trong cơ chế thị trường. Tự chủ tài chính nghĩa là các trường được tự xác định mức thu, không bị giới hạn trong quy định của nhà nước, và được tự xây dựng định mức chi. Còn tự chủ trong hoạt động chuyên môn và trong việc bổ nhiệm nhân sự lãnh đạo thì cho đến nay hầu như vẫn giậm chân tại chỗ. Nói “hầu như” là vì, cũng cần ghi nhận một số bước tiến trong việc các trường công hiện nay có thể chủ động hơn so với trước kia trong việc xây dựng chương trình đào tạo và sử dụng nhân sự trong trường, nhưng mức độ tự chủ của các trường cho đến nay vẫn chưa chạm tới được những vấn đề cốt lõi khả dĩ quyết định thành bại của nhà trường.

Đó có thể là lý do tạo ra sự ngần ngại của một số trường. Chẳng khác chi chúng ta trói chân họ lại và bảo họ: “Chạy đi! Cứ chạy hết tốc lực vào!” “Nhìn ra ngoài mà xem người ta chạy nhanh như thế nào kia kìa!”.

Tự chủ tài chính hiểu theo cách mà Việt Nam đang hiểu, là đặt các trường công vào cơ chế thị trường và buộc họ phải cạnh tranh để tồn tại. Họ phải cạnh tranh với các trường công khác trong hệ thống, với các trường tư, và đặc biệt là với các trường có yếu tố nước ngoài, để giành sinh viên và để tồn tại. Cạnh tranh là một điều tốt cho cả hệ thống vì nó là động lực kích thích phát triển. Các trường ĐH cũng không ra ngoài quy luật này. Vấn đề là, cạnh tranh trên nguyên tắc công bằng sẽ kích thích sự ưu tú, ngược lại nó có thể tạo ra những hiệu ứng tiêu cực mà người làm chính sách cần dự đoán trước.

Cạnh tranh có công bằng?

Vậy hiện nay các trường ĐH của chúng ta có đang cạnh tranh công bằng hay không? Và chúng ta xem xét sự công bằng trên cơ sở nào?

Giữa các trường công với nhau, công bằng không có nghĩa là các trường được cấp một con số kinh phí như nhau hay định mức giống nhau. Lý do là vì, xét về mặt lý thuyết, trường công thực hiện những nhiệm vụ nhà nước giao cho, và kinh phí phải tùy thuộc vào quy mô và mức độ ưu tiên của các nhiệm vụ trong từng giai đoạn. Ví dụ như giai đoạn trước đây cần có nhiều giáo viên, và vì nghề giáo thu nhập không mấy hấp dẫn, cho nên nhà nước cấp bù kinh phí cho các trường sư phạm để sinh viên không phải đóng học phí. Nhờ chính sách đó mà trường sư phạm đã thu hút được một lượng người học đáng kể, dẫn đến tình trạng hiện nay là khủng hoảng thừa, mà nhà nước vẫn chưa kịp thời điều chỉnh.

Tuy vậy, ngoài những ưu tiên đó, thì các trường công cần được bình đẳng về cơ chế. Ý tưởng “trao” quyền tự chủ tùy theo mức độ “phát triển” của từng trường thật ra chỉ là tấm bình phong cho cơ chế “xin cho”. Chúng ta có thể hiểu được e ngại của những người làm quản lý nhà nước về việc mở rộng tự chủ dẫn tới không thể kiểm soát, nhưng điều này không thể biện minh cho việc trường này thì được mức độ tự chủ cao hơn trường kia trên cơ sở đánh giá và cho phép của cơ quan thẩm quyền.

Các trường công cần phải được tự chủ ở mức độ như nhau, và nhất là phải thực hiện một trách nhiệm giải trình với một cơ chế giống nhau và ở một mức độ nghiêm ngặt như nhau. Chỉ trên cơ sở đó mới có cạnh tranh công bằng.

Giữa trường công và trường tư, hiện nay sự cạnh tranh không thực sự công bằng. Trường công, cho dù không nhận ngân sách chi thường xuyên, vẫn đang được bao cấp cơ sở vật chất và đầu tư xây dựng cơ bản, vì thế nếu thu cùng một mức học phí và cung ứng cùng một chất lượng dịch vụ so với trường tư, thì đó là cạnh tranh không công bằng. Bù lại, trường tư có một ưu thế cực kỳ quan trọng mà các trường công không thể sánh được, là họ có thể lựa chọn (và sa thải) hiệu trưởng. Mặc dù quyền này bị hạn chế khá nhiều bởi các quy định quản lý nhà nước, nhưng nhìn chung, trường tư có thẩm quyền tương đối lớn trong việc quyết định nhân sự lãnh đạo của trường.

Cả các trường công, lẫn các trường tư Việt Nam hiện nay đều đang phải cạnh tranh với các trường có yếu tố nước ngoài, như RMIT, British University Vietnam (BUV), American University in Vietnam (AUV), và sắp tới là Fulbright University Vietnam (FUV). Các trường này có thế mạnh về kinh nghiệm, thương hiệu, trình độ quản lý, vốn đầu tư, nhân lực, và thêm vào đó là tự chủ hầu như hoàn toàn về tất cả các mặt: tài chính, chuyên môn và nhân sự lãnh đạo. Ngay cả các trường tự coi mình là một trường ĐH Việt Nam như AUV hay FUV cũng đang xin “cơ chế đặc biệt” tức là không hoàn toàn vận hành trong khuôn khổ pháp lý Luật GDĐH Việt Nam. Ưu thế cạnh tranh gần như duy nhất của các trường ĐH Việt Nam là học phí thấp. Vì thế, đã hình thành hẳn những phân khúc thị trường khác nhau cho các loại trường này. Điều này cũng bình thường, nếu như các trường trong và ngoài nước được cạnh tranh trên một sân chơi công bằng.

Tất nhiên hệ thống GDĐH không thể phát triển bằng cách kéo lùi các trường có yếu tố nước ngoài này lại trong một khuôn khổ giống như các trường trong nước. Trái lại, không có lý do gì các trường trong nước lại không được hưởng mức độ tự chủ mà các trường này đang được hưởng.

Để tiến tới sự tự chủ ấy mà không gây rối loạn, rất cần có cái chân phanh “trách nhiệm giải trình” để cân bằng lại. Hai cơ chế chủ yếu để thực hiện trách nhiệm giải trình là hội đồng trường và kiểm định chất lượng. Việc kiểm định chất lượng đã có nhiều bước tiến rất đáng kể trong những năm qua, nhưng vấn đề hội đồng trường thì vẫn giậm chân tại chỗ, cho dù Bộ GD ĐT đã có công văn thúc giục các trường từ năm ngoái. Không thể nào tiến tới tự chủ một cách lành mạnh mà không giải quyết vấn đề hội đồng trường. Vì thế, để thúc đẩy tiến trình này, cần có nhiều nghiên cứu hơn về cơ chế hội đồng trường. Hội đồng trường trong thực tế hiện nay chủ yếu có tính chất trang trí, chính vì thế giới nghiên cứu nước ngoài có nhận định như đã nêu ở phần đầu bài viết. Cần tháo gỡ cơ chế trách nhiệm giải trình để có thể đẩy mạnh tự chủ ở các trường ĐH, một điểm có thể coi là nút thắt của GD ĐH Việt Nam hiện nay.