GIÁO DỤC MỘT NĂM NHÌN LẠI
TRANH LUẬN, LAY ĐỘNG VÀ CHỜ ĐỢI

 Phạm Thị Ly (2015)
(Đăng báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần 30.12.2015)

Nếu có bình chọn trong thập kỷ qua, năm nào có nhiều biến động nổi bật và có ý nghĩa nhất trong lĩnh vực giáo dục, rất có thể năm 2015 sẽ là ứng viên số 1!

Nóng bỏng những vấn đề lay động cả xã hội

Hai sự kiện nổi bật nhất là tuyển sinh ĐH và vấn đề môn Sử. 2015 là năm đầu tiên Bộ GDĐT áp dụng một phương thức thi chưa từng có tiền lệ trước đó: kết hợp hai kỳ thi tốt nghiệp PTTH và tuyển sinh ĐH; thi trước, chọn trường sau; và quá trình sàng lọc diễn ra công khai.

Như một đoàn tàu cả triệu hành khách quẹo cua bất ngờ, hàng trăm ngàn gia đình nháo nhào nộp rút, rút nộp tạo ra cảnh náo loạn, tâm trạng bất an và một số hệ quả không mong muốn, trong đó đáng lưu ý là sự phá vỡ những nỗ lực hướng nghiệp. Những bức xúc do sự bất cập của kỳ thi gây ra khiến nhiều người quên nhìn vào những điểm sáng của nó: thí sinh có nhiều cơ hội lựa chọn hơn, các trường có thể chọn được những em tốt hơn, và về nguyên tắc thì cạnh tranh diễn ra công bằng hơn:  người có điểm cao nhất sẽ được chọn.

Có rất nhiều điểm có thể và cần phải cải thiện để kỳ thi tuyển sinh ĐH tốt hơn. Dù vậy, cần nhìn nhận nỗ lực thay đổi của Bộ. Đổi mới thì sẽ có va vấp, thiếu sót, nhưng phản ứng của xã hội sẽ giúp điều chỉnh và khắc phục.

Một sự kiện thứ hai trong lĩnh vực giáo dục đã lôi cuốn sự quan tâm của hầu như toàn xã hội là vấn đề môn Sử trong Dự thảo Chương trình Giáo dục Phổ thông Tổng thể dự kiến áp dụng từ năm 2018. Cuộc tranh cãi về việc “xóa bỏ môn Sử” trên mọi phương tiện truyền thông đã dựa trên một tiền đề sai lạc: “Tích hợp môn Sử nghĩa là khai tử nó”. Vì dựa trên tiền đề đó nên câu hỏi đặt ra là “Nên hay không nên giữ lại môn Sử?” một câu hỏi đã tạo ra “cơn bão trong chén trà” khiến nhiều người lao vào chứng minh một điều không cần phải chứng minh, vì không một ai có lý trí bình thường lại ủng hộ việc xóa bỏ môn Sử cả. Câu hỏi đáng lẽ có thể đặt ra là: Có nên tích hợp môn Sử hay không, và quan trọng nhất là nên tích hợp môn Sử như thế nào? (tích hợp với bộ môn nào, vào giai đoạn nào trong quá trình giáo dục, ở cấp độ nào, bằng cách nào và nhằm giải quyết vấn đề gì, nhắm tới hình thành năng lực nào); liệu chúng ta có sẵn sàng để chấp nhận quan điểm đa dạng trong diễn giải lịch sử hay không, hoặc chúng ta sẽ chuẩn bị cho giáo viên như thế nào để họ có đủ năng lực sử dụng thẩm quyền trao vào tay mình khi giảng dạy tích hợp, thì không nhiều người bàn cho đến nơi đến chốn.

Mặc dù vậy, vẫn có thể thấy hai ý nghĩa nổi bật thể hiện qua cuộc tranh luận này. Một là, sự đa dạng nhiều chiều của các luồng ý kiến. Chưa có ai thống kê xem có bao nhiêu bài báo, bao nhiêu lượt bình luận về vấn đề này trên các báo, các mạng xã hội, và là phát biểu của những đối tượng nào, nhưng chắc chắn đó là một bức tranh rất đa dạng. Giới quản lý, giới sử học, giới nghiên cứu, giáo viên và giới trí thức nói chung, người dân thường, người trong nước, người ngoài nước, mọi thành phần đều lên tiếng với những quan điểm khác nhau thậm chí trái ngược, mặc dù vấn đề môn Sử có thể coi là khá nhạy cảm. Điều này quả là mới mẻ và là một tín hiệu tích cực. Rõ ràng là đã có một không gian rộng lớn hơn, cởi mở hơn để người dân có ý kiến, và chính qua cọ xát về lý lẽ mà những ý kiến đúng dần dần thuyết phục được công chúng. Hai là, cuộc tranh luận này đã thức tỉnh xã hội về tầm quan trọng và giá trị đích thực của giáo dục lịch sử, một vấn đề nhức nhối nhiều năm qua ai cũng biết, nhưng không ai làm gì để thay đổi nó.

Câu chuyện môn Sử vốn chỉ là một bộ phận nhỏ của vấn đề chương trình và sách giáo khoa phổ thông, đã chiếm mất nhiều giấy mực và thời gian làm lấn át một vấn đề quan trọng và đáng chú ý hơn là cải cách chương trình GD Phổ thông tổng thể. Chương trình đổi mới đã được xây dựng dựa trên nền tảng ý tưởng biến một nền giáo dục nhồi nhét kiến thức thành một nền giáo dục nhằm vào xây dựng năng lực. Nếu điều này trở thành hiện thực chứ không chỉ là câu khẩu hiệu treo trên tường, thì đó sẽ là cuộc cách mạng lớn nhất trong giáo dục kể từ năm 1945 đến nay, vì nó sẽ thay đổi hoàn toàn cách tiếp cận từ chỗ thầy giảng trò nghe, thầy đọc trò chép đến chỗ coi giáo dục là tổ chức các hoạt động trải nghiệm nhằm phát triển năng lực và thiên hướng cá nhân. Kỹ năng tư duy trừu tượng, khả năng tự học, năng lực tìm kiếm, đánh giá và chọn lọc thông tin, kỹ năng giao tiếp và hợp tác sẽ là những kỹ năng sống còn của con người trong kỷ nguyên kỹ thuật số, vì thế, sự đổi mới này của giáo dục là tuyệt đối cần thiết và không thể chậm trễ hơn nữa.

Tất nhiên, cuộc đổi mới này không dễ dàng. Rào cản trước hết là thay đổi cách nghĩ, cách quan niệm coi giáo dục là truyền giảng kiến thức. Những ý kiến phản đối việc tích hợp môn Sử cho thấy rõ điều này. Nhưng, như người sáng lập Facebook đã nói: “Chúng ta phải dám chấp nhận rủi ro hôm nay để học bài học cho ngày mai. Chúng ta vẫn đang ở buổi đầu trong quá trình học hỏi, và nhiều thứ chúng ta đang cố gắng có thể sẽ không có kết quả. Nhưng chúng ta lắng nghe, học hỏi, và không ngừng cải thiện”.

Một chuyện ồn ào khác nhưng có tác động hẹp hơn là câu chuyện tự phong giáo sư của Trường ĐH Tôn Đức Thắng, một vấn đề thu hút nhiều ý kiến trái chiều. Ngoài những ý kiến ủng hộ hay phản đối trong trường hợp cụ thể này, có thể thấy một xu hướng ngày càng mạnh mẽ hướng tới những chuẩn mực được quốc tế công nhận, bao gồm việc nâng cao thành tích nghiên cứu khoa học, và quan trọng hơn là những chính sách khích lệ sự ưu tú trong đó có chính sách tuyển dụng và bổ nhiệm giảng viên, cũng như ghi nhận thành tích và sự đóng góp của họ. Nó cho thấy sự chuyển dịch dần trọng tâm về phía các trường, và đó là một tín hiệu tích cực.

ĐH tư, thị trường giáo dục, bài toán tài chính ĐH và vấn đề phân tầng xếp hạng

Có một số thay đổi về mặt chính sách khó nhận thấy hơn vì chưa tạo ra tác động trong thực tế. Chính sách đối với khu vực GDĐH ngoài công lập, cổ phần hóa trường ĐH công và phân tầng xếp hạng các trường ĐH-CĐ thuộc loại này. Điều lệ Trường ĐH có hiệu lực từ 30.01.2015 dành một phần đáng kể nói về các quy định đối với ĐH tư, nổi bật là đối với ĐH không vì lợi nhuận. Tuy nhiên, chưa có chứng cứ nào cho thấy những quy phạm mới này sẽ góp phần tạo ra sự ổn định cho các trường ĐH tư và giải quyết vấn nạn chất lượng. Các trường tư vẫn chật vật với tuyển sinh đầu vào, đối với những trường mới và ít uy tín, thì bức tranh đầu vào rất ảm đạm. Trong bối cảnh ấy, việc mở ngành y của Trường ĐH Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội đã gây nên một làn sóng phản ứng mạnh mẽ do lo ngại về chất lượng.

Công bằng mà nói, những lo ngại này nhiều phần là do định kiến và thiếu chứng cứ cụ thể, nhưng những định kiến đó không phải là không có cơ sở. Nó dựa trên một thực tế, là người học đang là những khách hàng rất dễ bị tổn thương trong một thị trường dựa trên niềm tin và có rất ít thiết chế bảo vệ họ. Các trường còn rất nhiều việc phải làm để xóa bỏ định kiến này. Đồng thời, phản ứng trên đây của công luận cũng đặt ra vấn đề về năng lực làm chính sách của các cơ quan quản lý. Cấp phép cho làm, đến khi nghe công luận lớn tiếng thì rút lại hay xem xét lại, đó không phải là cách quản lý có tầm chiến lược, và nhất là không thể giúp tạo ra một môi trường chính sách ổn định, một điều kiện không thể thiếu để xây dựng tầm nhìn dài hạn cho các trường.

Một khuynh hướng có thể thấy rõ là mở rộng tự chủ ở các trường ĐH công, bắt đầu từ việc gia tăng con số các trường tự chủ tài chính, tiến đến việc cổ phần hóa các trường này. Điều này gây ra một số lo ngại. Mặc dù tăng cường tự chủ ĐH là một điều kiện thiết yếu cho việc cải thiện chất lượng, nhưng hiện chưa có sự chú ý thích đáng tới những cơ chế thực hiện trách nhiệm giải trình của các trường. Tự chủ mà không gắn với trách nhiệm giải trình thì sẽ là tùy tiện, và quá trình tư nhân hóa, thương mại hóa diễn ra theo cách cổ phần hóa trường công không hứa hẹn một kết quả tốt đẹp cho lợi ích công. Có ý kiến lo ngại rằng đó là biến của công thành của tư, và là một bước lùi trong việc thực thi vai trò và trách nhiệm của nhà nước đối với GDĐH, làm giãn rộng thêm khoảng cách về cơ hội tiếp cận giáo dục bậc cao.

Chủ trương về phân tầng và xếp hạng ĐH cũng chưa đi vào thực tế cho nên chúng ta chưa thể nhìn thấy rõ tác động của nó ngoài một vài dự đoán. Nghị định 73/NĐ-CP ban hành ngày 08/09/2015 về việc phân tầng và xếp hạng chỉ đem đến những hướng dẫn cụ thể để các trường biết mình đang ở chỗ nào, nhưng còn thiếu những chính sách cụ thể đối với từng loại trường để họ có thể dựa vào đó mà xây dựng chiến lược.

Cuối cùng, là hiện tượng tị nạn giáo dục vẫn không giảm. Hiện nay có khoảng 300 tổ chức, cơ quan mở văn phòng tư vấn du học trong cả nước, tổng số sinh viên Việt Nam đang du học ở nước ngoài khoảng 125 ngàn người tại 47 nước và vùng lãnh thổ. Riêng tại Mỹ, Việt Nam vẫn đứng thứ 8 trong số các quốc gia có nhiều du học sinh nhất: Theo báo cáo Open Doors 2015, riêng tại Mỹ Việt Nam có khoảng 17 ngàn sinh viên, tiêu tốn khoảng nửa tỉ USD mỗi năm. Số sinh viên Việt Nam đi học nước ngoài tăng đều qua từng năm, và đã tăng 26% so với năm 2010. Nó nói lên khát vọng mãnh liệt của tầng lớp trung lưu đối với giáo dục, khả năng tài chính và sự hy sinh của họ cho việc học hành của con cái. Nó cũng phản ánh một niềm tin rất thấp đối với giáo dục trong nước.

Bức tranh ngổn ngang trên đây phản ánh một xã hội đang chuyển đổi với những xu hướng tương đối tích cực.  Phản ứng mạnh mẽ của công luận về một số vấn đề nổi cộm cho thấy không gian cho sự tham gia của công chúng vào những vấn đề của giáo dục đang mở ra nhiều hơn, và cũng cho thấy áp lực đổi mới giáo dục đang ngày càng lớn. Nó cũng cho thấy một nhu cầu rất lớn với việc tăng cường năng lực xây dựng chính sách của nhà nước trong những vấn đề giáo dục, xây dựng và củng cố những giao tiếp có chất lượng giữa tất cả các bên liên quan để tạo sự đồng thuận khi tiến hành đổi mới.