Phạm Thị Ly (2016)
Đăng báo Người Lao động 02.01.2016

Năm 2015 có nhiều sự kiện nổi bật trong giáo dục đại học. Riêng về mặt tự chủ, chúng ta đã có những bước tiến nào trong việc phát triển chính sách, và những điều đó có ý nghĩa gì?

Vấn đề tự chủ đã được nêu ra lần đầu năm 2005 trong Luật Giáo dục và đến nay tầm quan trọng của nó đã được thừa nhận rộng rãi ở Việt Nam, nhưng những bước tiến của nó trong thực tế vẫn còn rất chậm. Một phần là do khung pháp lý chưa hoàn thiện, và một phần là do các trường chưa sẵn sàng thực thi nó.

Bước tiến trong năm 2015: Tự chủ tài chính

Có hai diễn biến chính sách quan trọng: chính phủ phê duyệt đề án 12 trường công tự chủ tài chính, và chủ trương cổ phần hóa trường công.

Thực ra quyết định mở rộng con số các trường công tự chủ tài chính này nằm trong một lộ trình đã bắt đầu từ 2006 với Nghị định 43/NĐ-CP với 6 trường ĐH thí điểm tự cân đối thu chi để bảo đảm toàn bộ kinh phí thường xuyên. Điểm tiến bộ so với trước, là nay không chỉ tự chủ về việc chi như thế nào, mà còn tự chủ cả mức thu. Nói nôm na là để cho các trường công vận hành trong cơ chế thị trường, cho phép thu học phí cao và đưa ra chất lượng dịch vụ tương xứng; nói cách khác là đa dạng hóa nguồn cung để tăng thêm cơ hội lựa chọn cho người học.

Vẫn biết là điều này sẽ làm hẹp lại cánh cửa cho người nghèo, nhưng một chủ trương tốt cần bao hàm được nhiều yếu tố bổ sung cho nhau: cần có những chính sách hỗ trợ bao gồm học bổng và tín dụng cho người nghèo; nếu chỉ dựa vào mức thu nhập của người nghèo để định ra mức học phí, thì chúng ta không bao giờ có dịch vụ đào tạo ĐH có chất lượng.

Chủ trương này không hẳn là đã được hoan nghênh hoàn toàn cả từ phía các trường lẫn từ phía người dân. Nhiều năm thụ hưởng bao cấp về giáo dục, nhiều người chưa sẵn sàng chấp nhận quan niệm xem GDĐH là một dịch vụ, và khi nhà nước không còn khả năng bao cấp, giá rẻ không thể đi kèm chất lượng tốt. Các trường cũng có ít nhiều e ngại khi bị cắt bầu sữa ngân sách, bởi lo ngại thu không đủ bù chi, nhất là các trường kỹ thuật vốn phải đầu tư nhiều trang thiết bị.

Nhà nước sẽ có được sự đồng thuận và ủng hộ lớn hơn của công chúng, nếu nhấn mạnh đầy đủ đến trách nhiệm giải trình của các trường, vốn là một công cụ hữu hiệu để cân bằng với quyền tự chủ và giúp các trường phát triển lành mạnh. Hơn nữa, rất cần nhấn mạnh rằng chuyển các trường công sang tự chủ tài chính không có nghĩa là nhà nước trút bỏ trách nhiệm đối với GDĐH, mà chỉ có nghĩa là đòi hỏi các trường phải thích ứng với đòi hỏi của thị trường lao động và cải thiện hoạt động nhằm vào hiệu quả, còn nhà nước thì tập trung vào những lĩnh vực và chức năng mà thị trường không thể đáp ứng.

Một chính sách khác là cổ phần hóa trường công, tức biến trường công thành trường tư, đang gây ra nhiều e ngại, vì nó sẽ được coi như đẩy nhà trường vào khu vực thị trường bằng cách thương mại hóa triệt để, một giải pháp biến tài sản công thành của tư rất xa lạ với thực tiễn quản trị hệ thống ở các nước.

Tự chủ tuyển sinh: những bước tiến còn nhiều trắc trở

Năm 2015, tuyển sinh được thực hiện theo cách chưa từng có tiền lệ trước đây: kết hợp hai kỳ thi TNPT và tuyển sinh ĐH thành một; thi trước chọn trường sau; thí sinh được chọn nhiều tổ hợp điểm khác nhau và xét tuyển công khai từ trên xuống.

Tuy nhiên, đã xảy ra nhiều trục trặc trong quá trình thực hiện gây ra bức xúc cho thí sinh và cả xã hội cũng như tốn nhiều giấy mực, thời gian để bàn luận. Trước khi bình luận về những điều này, có lẽ cũng nên nhắc mọi người rằng Bộ GD-ĐT đã cho phép các trường tự tổ chức tuyển sinh riêng, và thực tế đã có hàng trăm trường chủ động lập đề án và thực hiện tuyển sinh riêng theo cách của mình, trong đó có những nơi nghiên cứu rất cẩn thận và tổ chức một cách bài bản và hiện đại như Đại học Quốc gia Hà Nội. Những trường phải chịu cảnh nộp rút náo loạn là những trường tham gia xét tuyển chung theo sự điều phối của Bộ mà trực tiếp là Cục Khảo thí.

Mặc dù những hạn chế trong khâu tổ chức, đặc biệt là về mặt kỹ thuật và quy trình thực hiện của Bộ có vai trò quan trọng gây ra những bất cập không đáng có, chúng ta vẫn cần nhìn nhận rằng bước tiến lớn trong tự chủ tuyển sinh là việc Bộ chấp nhận cho các trường được phép có phương án riêng, tức là chấp nhận một mức độ tự chủ rất đáng kể so với trước đây, bởi vì đi cùng với nó là sự đa dạng trong phương thức tuyển sinh.

Lãnh đạo nhiều trường nói rằng nếu được phép lựa chọn, họ sẽ sử dụng kết quả kỳ thi năng lực của ĐHQG Hà Nội để xét tuyển vào trường mình. Điều này củng cố ý tưởng tách riêng hai việc thi và tuyển, như một số chuyên gia đã đề cập từ lâu. Tách thi và tuyển là cách làm phổ biến ở nhiều nước, vì nó bảo đảm phẩm chất kỹ thuật của việc đánh giá năng lực, và bảo đảm quyền tự chủ của từng trường trong việc xây dựng chính sách, chiến lược và tiêu chuẩn, quy trình lựa chọn sinh viên. Hiện nay Việt Nam chưa thực sự đi theo hướng này, ngoài những trường có đề án tuyển sinh riêng, những trường tham gia xét tuyển chung chỉ dựa vào hầu như một nhân tố độc nhất là điểm thi, trong lúc điểm thi chỉ nói lên một phần năng lực người học, chưa kể là thi chung như năm nay thì có nhiều yếu tố làm cho điểm thi có khả năng không chính xác.

Tự chủ về chuyên môn học thuật

Tháng 4.2015 Bộ GD-ĐT ban hành Thông tư 07/2015/TT-BGDDT quy định về chuẩn đầu ra các bậc học từ cử nhân đến tiển sĩ và quy trình xây dựng, thẩm định chương trình đào tạo, đồng thời công bố dự thảo về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo vào tháng 11. 2015. Những văn bản chính sách này đã thiết lập một hành lang pháp lý cần thiết để các trường có cơ sở thực thi quyền tự chủ của mình trong việc xây dựng chương trình và quyết định nội dung giảng dạy. Bộ chỉ hướng dẫn quy trình và cái khung khổ chung cho từng trình độ nhưng không can thiệp vào việc xác định chuẩn đầu ra của từng ngành, từng trường. Lạ lùng thay một số trường lại cho rằng xây dựng chuẩn đầu ra cho từng ngành, từng trình độ là việc của Bộ, và mong Bộ GDDT sẽ làm thay việc ấy cho các trường. Có thể thấy đang có một không gian mở ra cho các trường để làm được nhiều việc có ý nghĩa đổi mới, nhưng dường như nhiều trường vẫn chưa nắm lấy được những cơ hội ấy.

Tự chủ về nhân sự

Câu chuyện tự công nhận tiêu chuẩn giáo sư của Trường ĐH Tôn Đức Thắng đã đặt ra một vấn đề quan trọng hơn là chính sách bổ nhiệm và sử dụng giảng viên, hay nói rộng hơn là chính sách dùng người. Mặc dù gây nhiều tranh cãi nhưng tác động của nó là đưa ra công luận tầm quan trọng của việc trao quyền cho các trường công nhận những thành tích học thuật của giới hàn lâm nhằm khích lệ và sử dụng họ tốt hơn. Kết cục của câu chuyện ồn ào này là Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam chấp thuận đề nghị của Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước xem xét lại thủ tục, tiêu chuẩn, quy trình công nhận và bổ nhiệm giáo sư, nhằm thay đổi những bất hợp lý hiện thời.

Mặc dù chúng ta chưa biết chính sách mới về việc này sẽ ra sao, nhưng có thể hy vọng rằng nó thể hiện được xu thế quốc tế, là chuyển dịch trọng tâm về phía các trường. Hiện nay Hiệu Trưởng các trường công cũng như tư đều là do nhà nước bổ nhiệm, chúng ta có thể hy vọng trong tương lai quy trình lựa chọn lãnh đạo các trường cũng sẽ là câu chuyện của từng trường. Điều này đang được thấy rõ ở các trường công tự chủ tài chính: do phải đương đầu với cạnh tranh của kinh tế thị trường, các trường công tự chủ tài chính đang có xu hướng tìm người lãnh đạo thực sự có năng lực chứ không chỉ là những người có gia thế hay quan hệ tốt.

Có thể nói, trong lĩnh vực tự chủ, Việt Nam đang tiến những bước rõ rệt và đáng khích lệ. Có lẽ điều cần nhấn mạnh là nhà nước cần chú trọng hơn đến những thiết chế bảo đảm trách nhiệm giải trình của các trường nhằm xây dựng vị trí quân bình của nhà trường và bảo vệ lợi ích của xã hội.