GHI NHẬN TỪ ĐỐI THOẠI GIÁO DỤC TOÀN CẦU 2015:
TƯƠNG LAI CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

Phạm Thị Ly (2015)
(Bản ngắn hơn đăng trên Tuổi Trẻ Cuối Tuần số 8-2015 ra ngày 08.03.2015 dưới tiêu đề: Khi các giáo sư đối diện “i-generation”)

Đối thoại Giáo dục Toàn cầu là một chuỗi sinh hoạt học thuật thường niên của Hội Đồng Anh, nhằm tập hợp các nhà lãnh đạo trong khu vực chính phủ, doanh nghiệp và trường đại học (ĐH) từ nhiều nước trong một diễn đàn thảo luận đa quốc gia về những vấn đề trọng yếu nhất đã và đang có tác động mạnh mẽ đến GDDH trên thế giới. Đối thoại Giáo dục Toàn cầu năm 2015 tổ chức tại Seoul, Hàn Quốc, ngày 26 và 27 tháng 2 năm 2015. Chủ đề năm nay là vai trò của công nghệ trong cuộc đua tài năng toàn cầu. Ở một tầm mức sâu hơn, hội thảo đã đặt ra những câu hỏi rất quan trọng và lý thú về tương lai của GDĐH.

Thế hệ i: đối tượng của GDDH tương lai

 Một khái niệm trở đi trở lại trong hội thảo này là “thế hệ i” (i-generation), một thuật ngữ chỉ những người sinh từ năm 1985 về sau, thế hệ đầu tiên trưởng thành trong môi trường mà việc sử dụng công nghệ truyền thông trở thành phổ biến rộng rãi. Họ là những người sử dụng các thiết bị truyền thông như iphone, ipod, ipad, v,v. thành thạo và thường xuyên trong mọi hoạt động của đời sống.

Thế hệ i là những “công dân kỹ thuật số” (digital citizen), những người làm nhiều việc cùng lúc, giữ liên lạc thường xuyên với mạng xã hội qua email, face book, twitter, v.v… sử dụng liên tục các phương tiện truyền thông cả ở nhà lẫn ở trường, tiếp xúc với một khối lượng thông tin khổng lồ từ đủ mọi nguồn và do đó họ có những mong đợi hoàn toàn khác với những mong đợi mà thế hệ phụ huynh của họ đặt ra cho nhà trường truyền thống. Họ sử dụng internet để kết bạn, giao tiếp, giải trí, mua bán, tìm kiếm thông tin…  Andy Chun (City University of Hong Kong) cho biết, mức độ sử dụng điện thoại thông minh, máy tính, thiết bị truyền thông v.v. càng nhiều, thì thời gian dành cho giao tiếp xã hội và những tương tác cá nhân trực tiếp càng giảm.

Tiến bộ công nghệ: cơ hội hay thách thức?

Tiến bộ khoa học công nghệ, tốc độ phát triển những tri thức mới và khối lượng khổng lồ của những tri thức và thông tin mà con người tạo ra khiến mỗi người ngày càng khó nắm bắt đủ kiến thức dù chỉ để giải quyết một vấn đề nào đấy. Tính chất chuyên ngành của từng lãnh vực trở thành mong manh. Luôn luôn phải có chuyên gia của nhiều lãnh vực khác nhau cùng làm việc với nhau để tạo ra một sản phẩm hay giải pháp. Do đó, bản thân kiến thức không quan trọng bằng việc áp dụng kiến thức (King L. Chow, HKUST, Hong Kong). Bởi vậy xu hướng đang hình thành của GDDH thế kỷ 21 là phổ biến kiến thức và chia sẻ kinh nghiệm một cách hiệu quả ở quy mô càng rộng càng tốt.

Công nghệ ảnh hưởng đến cách chúng ta thực hiện hoạt động nghiên cứu như thế nào? Anders Karlsson (Phó Chủ tịch Elsevier) trình bày những con số cho thấy mức độ hợp tác quốc tế cũng như số bài báo khoa học có đồng tác giả đang tăng nhanh ở nhiều nước, đặc biệt là những nước đang dẫn đầu thành tích và năng suất nghiên cứu khoa học. Ông cũng cho rằng công nghệ thông tin và truyền thông đã thay đổi cách khai thác và sử dụng dữ liệu, cách làm việc cùng nhau của các nhà khoa học đến mức những khái niệm về đạo văn, về đồng tác giả cần phải được định nghĩa lại.

Từ góc nhìn của người lãnh đạo một trường ĐH dành cho phụ nữ đã có hơn một trăm năm tuổi, Sun Hye Hwang (Trường ĐH Sookmyung Women’s University, Korea) cho rằng tiến bộ công nghệ đã mang lại cơ hội to lớn cho người học trên ít nhất hai phương diện: đưa giáo dục bậc cao đến với những phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn ít cơ hội tiếp cận ĐH, và mang lại khả năng mở rộng nguồn tri thức vượt ra xa hơn giới hạn của nhà trường. Nhưng nó không chỉ là một cơ hội, mà còn đặt ra những thách thức to lớn. Đàm Quang Minh (Trường ĐH FPT, Việt Nam) cho rằng cùng với những khả năng lớn lao mà tiến bộ công nghệ mang lại cho giáo dục, ngày nay người thầy không thể tiếp tục cách dạy như trước đây được nữa, bởi lẽ sinh viên ngày nay, thành thạo công nghệ thông tin và tiếp cận nhiều nguồn thông tin hơn thế hệ trước rất nhiều, sẽ có thể kiểm chứng gần như lập tức những gì thầy giảng.

Việc phụ thuộc vào thiết bị truyền thông và gắn kết với thế giới ảo của mạng xã hội ở cường độ cao đã tạo ra cho thế hệ i những đặc điểm đáng quan ngại: họ đòi hỏi nhiều hơn, tập trung cho những nhu cầu của bản thân họ hơn, ít quan tâm hơn tới những vấn đề chung của xã hội và lợi ích công. Sun Hye Huang cho rằng trong lúc nhấn mạnh những cơ hội mà tiến bộ công nghệ mang lại, chúng ta đã đánh mất nhiều nỗ lực lẽ ra phải giành cho việc xây dựng nhân cách của người học thông qua củng cố những mối liên kết xã hội, không chỉ là về mặt kiến thức, mà còn là về cảm xúc và xây dựng sự gắn bó với cộng đồng.

Trường ĐH của ngày mai

Trường ĐH của ngày mai sẽ như thế nào? Liệu dạy và học online có biến thành một chuẩn mực mới, hay sẽ là một hình thức pha trộn nào đấy? Liệu sinh viên có thể cá nhân hóa việc học của mình bằng cách học nhiều môn tự chọn khác nhau ở những trường khác nhau? Làm sao bảo đảm chất lượng bằng cấp trong những trường hợp ấy?

Kumiko Aoki (Trường ĐH Mở, Nhật Bản) cho rằng trường ĐH của ngày mai phải thay đổi: chức năng của nó không chỉ còn là trang bị kiến thức và bằng cấp cho người học, mà là nơi tạo ra tri thức và thiết lập mạng lưới giao tiếp xã hội. Trường ĐH của ngày mai sẽ nhấn mạnh kết quả học tập, và coi phát triển năng lực là nền tảng của phương pháp sư phạm. Tín chỉ sẽ không dựa trên số giờ sinh viên dành cho việc học, mà dựa trên những năng lực nào người học đã đạt được.

Nếu trường ĐH của hôm nay dựa trên diễn giảng bằng lời, với những người học ngồi và nghe, nhằm vào mục tiêu tìm kiếm việc làm trong một nghề nghiệp cụ thể, chương trình học được quyết định từ bên trên, thi cử kiểm tra là một hệ thống đóng chặt, phương tiện chính và bút và giấy; thì trường ĐH của ngày mai dựa trên các phương tiện nghe nhìn với hình ảnh và âm thanh, mang lại cơ hội nhìn thấy và trải nghiệm cho người học; nhằm vào những kỹ năng cơ bản hữu dụng trong bất cứ bối cảnh hay lĩnh vực nào; nhấn mạnh sự hợp tác và vai trò trung tâm của người học, với phương tiện chính là màn hình điện thoại, máy tính bảng và máy tính (Andy, City University of Hong Kong).

Trường ĐH của ngày mai hoạt động trong một bối cảnh hoàn toàn khác với bối cảnh của các trường ĐH truyền thống: Joon Heo (Yonsei University) cho rằng 65% trẻ em thế hệ này sẽ làm những loại công việc ngày nay chưa hề có. Liệu các trường hiện nay có sẵn sàng cho thế hệ ấy? Nguyễn Ngọc Vũ (Trường ĐH Sư phạm TPHCM, Việt Nam) thực hiện một khảo sát và thử nghiệm với 111 sinh viên khoa Anh để tìm câu trả lời. Việt Nam, một đất nước có 92 triệu dân, nhưng có đến 134.066.000 thuê bao điện thoại di động tính đến tháng 1-2014, và 20.000.000 tài khoản facebook đang hoạt động; thời gian trung bình một người dùng internet dành cho việc lướt net mỗi ngày là 4giờ 37 phút và dùng điện thoại đi động internet là 1giờ 43 phút. Giới trẻ đã sẵn sàng đến mức nào trong việc học tập bằng các thiết bị di động (M-learning)? Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Vũ cho thấy những người thường xuyên sử dụng internet tại nhà chiếm 86%, nhưng có đến 73,2% chưa bao giờ học một khóa trực tuyến qua ĐTDĐ. Thông qua khóa học thử nghiệm, 79% người học đồng ý rằng M learning hỗ trợ tích cực cho việc học theo lối truyền thống, và 56% cho rằng điều này mang lại cho họ thêm hứng thú với việc học. Về mặt kết quả học tập, 100% người học đạt trình độ C 1 khi kết thúc khóa học.  Điều đó nói lên rằng sinh viên Việt Nam, ít ra là ở một thành phố lớn, đã sẵn sàng cho việc tiếp thụ M-learning, nhưng các trường nói chung thì lại có rất ít đáp ứng với nhu cầu ấy.

Liệu các trường ĐH hiện nay có đáp ứng được mong đợi của thị trường lao động? Tae Eog Lee (Viện KHCN Tiên tiến Hàn Quốc- KAIST) cho rằng khoảng cách kỹ năng giữa những gì nhà trường mang lại và những gì cần cho thế giới việc làm là một thực tế phổ biến trên toàn thế giới. Từ góc nhìn của giới doanh nghiệp, Obert Hoseanto (Microsoft Indonesia) cho biết họ phải thường xuyên đào tạo lại sinh viên tốt nghiệp từ các trường để họ có thể đáp ứng được đòi hỏi của thế giới việc làm. Tuy nhiên, theo ông, nhu cầu của các doanh nghiệp bao giờ cũng rất cụ thể và tức thời, trong lúc đó trường ĐH là một cái gì rộng lớn hơn và mang lại những năng lực có ý nghĩa nền tảng hơn, do vậy việc đưa quan điểm của giới doanh nghiệp vào chiến lược của trường có nguy cơ thu hẹp hoạt động và sứ mạng của nhà trường vào những mục tiêu quá gần và quá cụ thể.

Tương lai của GDĐH

Câu hỏi về tương lai của GDĐH là điều được nhiều người chia sẻ tại diễn đàn Đối thoại Giáo dục năm nay. Nhiều trường đã đưa đào tạo trực tuyến vào của hoạt động họ như một phần của những chương trình có cấp bằng, và tất nhiên là không miễn phí. Tương lai của MOOC, của đào tạo trực tuyến (online learning), và của lối học tập qua các thiết bị di động (mobile learning) sẽ như thế nào? Liệu nó có thay thế nhà trường truyền thống và xóa sổ các trường ĐH hiện nay vốn dựa trên cơ sở vật chất hữu hình và đào tạo mặt đối mặt?

MOOC rõ ràng là đã tạo ra một cơ sở hạ tầng mới, một phương thức đào tạo mới và mang lại cho người học những gì chưa từng có trước đây trong nhà trường truyền thống. Simon Nelson (Futurelearn) cho rằng GDĐH xưa nay vốn có tính “kỳ thị”: nó không dành cho tất cả mọi người, mà chỉ dành cho những người có đủ khả năng chi trả và/hoặc có tư chất thông minh đặc biệt hay ít ra là đạt đến một mức độ phát triển nhất định trong trí tuệ. MOOC đưa ra một kho dữ liệu mở, kiến thức mở, dựa trên công nghệ mở, và cho tất cả mọi người. Joon Heo đưa ra hình ảnh các loại mì ăn liền đủ mọi nhãn hiệu để diễn đạt bữa tiệc tự chọn của giáo dục ngày nay: ta có thể chọn bất cứ môn nào mình muốn, và học nhiều ít tùy theo khả năng ta có thể hấp thụ. Đã bắt đầu có xu hướng phát triển “peer assessment” (dùng ý kiến đánh giá của bạn học như một công cụ chính thức để xem xét kết quả học tập, coi việc học lẫn nhau là điều quan trọng), và khích lệ người học tạo ra các nội dung dạy học, coi dạy cũng là một cách học.

Huang Hoon Chng (NUS, Singapore) đưa ra kết quả một cuộc khảo sát với lãnh đạo các trường ĐH do Scott Jaschik thực hiện năm 2013: 47% hiệu trưởng đồng ý rằng đào tạo trực tuyến mở đại trà (MOOC) là một mối đe dọa đối với mô hình hoạt động hiện nay của các trường ĐH. Tuy vậy cũng có ý kiến cho rằng, sinh viên chỉ học khi họ phải trả tiền, và chỉ làm bài khi được cho điểm, với tâm lý ấy thì tương lai của MOOCs sẽ còn rất xa mới trở thành nguy cơ giành hết người học của các trường.

Nhiều người nghĩ rằng GDĐH đang đối mặt với một tương lai không chắc chắn, bởi có rất nhiều điều chúng ta chưa biết, và những gì chúng ta đã biết có thể thay đổi rất nhanh. Tuy nhiên, như nhiều người khác, Simon Nelson vẫn tin rằng, ngày mai chưa phải là ngày tận thế đối với GDĐH. Nó chắc chắn sẽ thay đổi, nhưng sẽ không bị thay thế.

Đặc điểm quan trọng nhất của GDĐH tương lai là tính chất đại chúng của nó. Tuy vậy, có một điều rất đáng lưu ý, cùng với xu hướng mở rộng số người vào ĐH là xu hướng cá nhân hóa việc học. Bởi con người sinh ra vốn không bình đẳng, nên giáo dục cũng không thể có một kích cỡ vừa cho tất cả mọi người. Chow cho rằng có nhiều thứ đang bị các trường ĐH bỏ quên: nhiều trường không quan tâm tới việc kích thích người học khám phá những lĩnh vực chuyên ngành mới, giúp người học phát triển mối quan tâm của chính họ thay cho việc dẫn dắt họ hướng tới những mối quan tâm quá cụ thể và tức thời như hiện nay. Nhiều trường không chú ý giúp người học tự khám phá tri thức mới, hiện thực hóa những gì được học, biến những gì được học thành tri thức nội tại.  Tiến bộ công nghệ đã cho phép việc cá nhân hóa quá trình học tập có thể thực hiện được một cách triệt để. Xu hướng của tương lai không phải là tạo ra những kỹ sư, bác sĩ, cử nhân như những sản phẩm đúc khuôn hàng loạt, mà là giúp người học khám phá những năng lực và thiên hướng rất riêng của mỗi người, để họ có thể tự chọn lựa, theo đuổi, phát triển những đam mê và năng khiếu của riêng mình, bởi đó là tiền đề cho sự sáng tạo, mà khả năng sáng tạo chính là nhân tố sống còn đối với việc tạo ra tài năng trong tương lai.

Mặc dù kết quả bỏ phiếu tại chỗ cho thấy hầu hết thành viên dự hội thảo có một cái nhìn lạc quan về tương lai của GDDH, rất nhiều người cùng chia sẻ những nhận thức và ý tưởng về những thách thức lớn lao và sự đổi thay tất yếu của nó. GDDH đã trở thành đại chúng trên mọi phương diện, và kéo theo nó là sự thay đổi sâu sắc trong thành phần và đặc điểm của người học, cũng như sự thay đổi của bối cảnh. Cuộc đua giành tài năng trên phạm vi toàn cầu là một hiện thực mà không ai có thể phủ nhận. Chính phủ các nước, giới doanh nghiệp, giới đại học rất cần có thêm nhiều cuộc đối thoại để có thể đáp ứng tốt nhất với những thay đổi của một thế giới đang nối kết ngày càng chặt chẽ qua phương tiện kỹ thuật số. Chính sách nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra và sử dụng người tài. Các trường ĐH sẽ không còn lý do để tồn tại nếu họ vẫn tiếp tục hoạt động theo lối truyền thống mà không tính đến một hiện thực là thế hệ i ngày nay thành thạo công nghệ hơn, tiếp thụ một nguồn thông tin lớn hơn cha anh họ gấp bội, và vì thế hoàn toàn không cần đến lối dạy truyền thụ tri thức một chiều như trước nữa.

Tiến bộ công nghệ đã làm thay đổi diện mạo cuộc sống của chúng ta, thay đổi cách sống, cách làm việc, và đặc biệt là cách giao tiếp của chúng ta một cách vô cùng sâu sắc. Bối cảnh hôm nay đã khác rất nhiều so với chỉ một thập kỷ trước đây, và ngày mai sẽ còn khác hôm nay nhiều hơn thế nữa. Vì vậy nhiều khái niệm cần phải định nghĩa lại, trong đó có khái niệm trường ĐH. Trường ĐH tương lai sẽ tiếp tục lớn mạnh nhưng chắc chắn là với một vai trò mới và diện mạo mới.

Viết tại Seoul ngày 28.02.2015

Lời cảm ơn:

Tác giả xin trân trọng cảm ơn Hội Đồng Anh Việt Nam và Trường ĐH FPT đã tài trợ chi phí cho chuyến đi để viết có điều kiện tham dự hội thảo. Xin cảm ơn hai bạn đồng nghiệp Đàm Quang Minh và Phan Thi Cầm đã góp ý bổ sung cho bản thảo ban đầu. Đặc biệt xin cảm ơn TS. Jamil Salmi đã giúp xem lại bản tiếng Anh. Mọi sơ sót nếu có tất nhiên là của người viết.