Tác giả: John Quiggin
Người dịch:
Phạm Thị Ly (2015)

Hàng năm, U.S. News & World Report, Times Higher Education, cũng như các tổ chức xếp hạng khác, đều cập nhật kết quả xếp hạng các trường ĐH. Những phản ứng mà ta có thể thấy khá là ngược đời. Một mặt, các nhà quản lý và giảng viên ra sức xem xét danh sách những bằng chứng nhỏ nhất cho việc tiến lên hay thụt lùi của các trường; mặt khác, tất cả mọi người đều biết rằng danh sách 10, 20 hay 50 trường hàng đầu sẽ vẫn hầu như không đổi như nó vẫn thế từ xưa tới giờ.

Nhà xã hội học Kieran Healy ở Trường Duke cho biết từ năm 1911 đã có sự phân loại các trường ĐH thành 4 hạng từ thấp đến cao, và so sánh thang bậc này với kết quả xếp hạng mới nhất của   U.S. News. Trong số 20 trường hàng đầu của bảng xếp hạng này, đã có 16 trường nằm trong danh sách các trường hạng nhất năm 1911, một trường nằm trong hạng hai (Notre Dame) và ba trường (Duke, Rice, and Caltech) lúc đó chưa thành lập.

Hoa Kỳ không phải là ngoại lệ. Ở hầu hết những nước có truyền thống đại học vững mạnh, danh sách những trường có địa vị cao thay đổi rất ít qua nhiều thập kỷ, thậm chí, qua hàng thế kỷ. Có những thay đổi rất ít ỏi trong cương vị tương đối của những loại trường khác nhau (ví dụ trường tư so với trường công ở Hoa Kỳ); cũng như có một số trường mới ở Châu Á (hay những vùng lãnh thổ tăng trưởng mạnh về kinh tế) nổi lên một cách khá ấn tượng, nhưng tác động của nó chỉ có tính chất ngoài lề.

Nói chung, danh sách năm 1911 sẽ chẳng làm ai phải ngạc nhiên nếu nó được dùng làm cơ sở cho bảng xếp hạng sắp tới của U.S. News. Với những ai muốn tìm lời giải cho câu hỏi “ cái gì đã làm nên một trường ĐH ưu tú?” câu trả lời sẽ là “đã và đang ưu tú từ 100 năm nay”.

Bây giờ ta hãy thử so sánh chỉ số Dow Jones trung bình của các doanh nghiệp năm 1911, gồm những công ty lớn như American Smelting and Refining Company (hiện nay là Asarco), U.S. Rubber (hiện nay là Uniroyal), và U.S. Steel. Một vài doanh nghiệp trong số này đã biến mất, một số khác vẫn đang tồn tại như là một bộ phận của những công ty lớn hơn, duy chỉ có General Electric là vẫn còn nằm trong danh mục chỉ số Dow Jones của thị trường chứng khoán. Tuyệt đại đa số các công ty trên sàn chứng khoán Dow Jones ngày nay chưa hề tồn tại vào năm 1911.

Cái gì đã tạo ra sự ổn định bền vững nổi bật đến thế trong đẳng cấp của các trường ĐH so với sự không ổn định của các doanh nghiệp lớn, và các tổ chức phi lợi nhuận khác? Quan trọng hơn là, điều này có ý nghĩa gì đối với việc quản lý các trường đại học và việc xây dựng chính sách cho GDĐH?

Có nhiều đặc điểm của trường ĐH có ý nghĩa quan trọng trong việc giải thích kết quả này. Trước hết, không như các doanh nghiệp, các trường ĐH hầu như chẳng bao giờ chết và hiếm khi sáp nhập. Tất cả 14 trường ĐH tạo thành Hiệp hội các Trường Đại học Hoa Kỳ vào năm 1900 hiện nay vẫn đang tồn tại.

Hai là, và đây là điều có liên quan trực tiếp, các trường đại học là những tổ chức được những tài liệu nghiên cứu về tổ chức doanh nghiệp gọi là những đơn vị “chỉ một trụ sở”. Tuyệt đại đa số các trường đại học chỉ có một trụ sở, hoặc nhiều lắm là hai cơ sở đào tạo chính, với vài ba chi nhánh ngoại vi không mấy quan trọng. Có vài ngoại lệ chẳng hạn như University of California trong thực tế là một hệ thống ĐH với những trường riêng gắn với nhau chỉ bằng một hệ thống quản trị có chung một nền tảng và nguyên tắc.

Những yếu tố cơ cấu ấy đặt ra một phạm vi giới hạn cho quy mô khả thi của một trường ĐH. Một cơ sở đào tạo không thể chứa nổi 40 ngàn sinh viên mà không rơi vào tình trạng không có hiệu quả xét về mặt kinh tế, bởi những giới hạn về quy mô của giảng đường. Trường ĐH công lập lớn nhất đạt tới quy mô đó trong thập kỷ 1970, và số sinh viên của họ vẫn giữ ổn định ở quy mô đó cho đến nay.  Các trường tư tinh hoa vận hành ở một quy mô nhỏ hơn nhiều, thường là từ 3000 đến 5000 sinh viên, và hầu hết đã duy trì quy đó từ những năm 1950 đến nay.

Đặt cạnh nhau, những yếu tố này đã loại trừ nhiều cơ chế của thị trường, một cơ chế vốn dĩ sẽ khen thưởng ta bằng những thành công hay trừng phạt ta bằng những thất bại. Một trường ĐH ưu tú thường không tạo ra cơ sở mới hay thậm chí cũng không mở rộng quy mô tuyển sinh. Một vài trường ĐH Hoa Kỳ đã thử kiểm tra định đề này bằng cách thiết lập những cơ sở nhánh ví dụ như trường ĐH Yale đã thử mở phân hiệu tại Singapore và New York University tại UAE. Các trường này đã học được kinh nghiệm mà các đồng nghiệp Australia từng trải qua khi họ làm một việc tương tự trong những năm 1990, với một kết quả nhẹ thì là thất vọng mà nặng thì là một thảm họa. Ngược lại, chất lượng hoạt động kém cỏi có thể tạo ra áp lực đủ loại, nhưng hầu như chẳng bao giờ dẫn tới chỗ đóng cửa các trường (công lập) hoặc ngay cả thay đổi hợp đồng một cách căn bản.

Kết quả là, sự phát triển của hệ thống ĐH diễn ra chủ yếu là qua thành lập thêm những trường ĐH mới, hoặc nâng cấp những trường cao đẳng, trường nghề ví dụ những trường sư phạm. Ít nhất là thoạt đầu, những trường mới hầu như lúc nào cũng có địa vị thấp hơn trong thang bậc đẳng cấp. Sáng lập một trường ĐH nghiên cứu mới như trường hợp University of California ở Merced, là một sự kiện hiếm hoi.

Những sự kiện trên đây đã đủ để giải thích phần nào sự khác nhau giữa mức độ ổn định trong vị trí xếp hạng của các trường và sự thay đổi vị trí của các doanh nghiệp hàng đầu. Không có một lịch sử tồn tại từ lâu, và rất ít khả năng mở rộng, con đường duy nhất giúp các trường có thể thay đổi vị trí xếp hạng của mình là tạo ra thay đổi chất lượng (đã được nhận thức rõ) trong giảng dạy và nghiên cứu. Nó nhất thiết là một quá trình tiệm tiến và cần có thời gian.

Hơn thế nữa, các trường ĐH là những tổ chức không vì lợi nhuận tuy nó có tạo ra thặng dư trong hoạt động vận hành. Không có cổ đông và chia lãi, khoản thặng dư được tạo ra được dùng để cải thiện địa vị của nhà trường, ví dụ như tuyển dụng giáo sư siêu sao, thiết lập những trung tâm nghiên cứu mới, hay tăng cường trang thiết bị, cơ sở vật chất để thu hút sinh viên.

Tuy những đặc điểm có tính chất thiết chế trên đây có thể giải thích vì sao địa vị tương đối của các trường không thay đổi bao nhiêu từ năm này sang năm khác, từ thập kỷ này sang thập kỷ khác, nhưng nó không giải thích được mức độ ổn định hầu như không đổi của vị trí các trường từ thế kỷ này sang thế kỷ khác.

Về mặt thống kê, chúng ta có thể nghĩ rằng địa vị của các trường là một quá trình được xác định bằng trung bình cộng của những hành động nhằm bảo toàn vị trí của nó. Điều này có nghĩa là, nếu một trường ĐH có cương vị cao một lúc nào đó sa sút về chất lượng, có thể do lãnh đạo yếu kém hoặc những quyết định tuyển dụng sai lầm, nhiều khả năng là nó sẽ hồi phục qua thời gian. Ngược lại, một trường có địa vị thấp nếu có làm tốt trong một vài năm thì cũng khó mà duy trì cương vị ấy dài lâu.

Nhân tố cốt yếu giải thích giá trị trung bình cộng của những hành động bảo toàn vị trí của trường là sự tồn tại bền vững của nhiều loại tài sản khác nhau, trong đó quan trọng nhất là con người và uy tín. Một trường ĐH có đẳng cấp cao và có truyền thống lâu dài bao giờ cũng có rất đông cựu sinh viên, nghiên cứu sinh, giảng viên và cựu giảng viên, các nhà nghiên cứu đối tác gắn bó với nó. Bên cạnh những lợi ích hiển nhiên như tài trợ của cựu sinh viên chẳng hạn, những người này còn có thể là một nguồn lực hỗ trợ lớn cho việc động viên tinh thần sinh viên, đem lại cơ hội việc làm cho người tốt nghiệp. Họ còn là những giáo sư lớn tuổi thiết tha muốn đóng góp cho ngôi trường mà họ từng làm việc.

Một cách để kiểm nghiệm ý tưởng này là tìm kiếm những ví dụ khác về cuộc cạnh tranh trong cương vị trên bảng xếp hạng khi thứ hạng này ổn định qua một thời gian dài. Một trường hợp lý thú là đội bóng chày siêu sao Châu Âu. Không như những đội bóng có đẳng cấp của Mỹ, những đội bóng châu Âu hầu như không có mức trần trong việc trả lương. Việc các cầu thủ từ đội này chuyển qua đá cho đội khác diễn ra theo cơ chế thăng giáng tự nhiên, tức người chiến thắng nếu đang ở vị trí thấp trong bảng lương cạnh tranh sẽ tiến lên qua một đội khác với mức thù lao khủng và ngược lại.  Tuy vậy, trong thực tế, đội được tăng thường phải chật vật giữ vị trí, còn đội bị giáng cấp thì thường bò lên mức cao hơn sau đó.

Hơn nữa, tuy hầu hết các đội thể thao là thuộc tư nhân, ít ông bầu tìm cách khai thác lợi nhuận. Thay vào đó, khoản lợi nhuận thường được đầu tư lại cho đội bóng và dung để thu hút những cầu thủ cừ khôi. Đổi lại, điều đó tạo ra thành tích và kỷ lục, mà thành tích và kỷ lục sẽ thu hút thêm người hâm mộ và tạo ra thêm thu nhập. Một khi đã bị thu hút, người hâm mộ, cũng giống như cựu sinh viên trong bối cảnh trường ĐH, trở thành một tài sản suốt đời của các đội bóng.

Chẳng có gì đáng ngạc nhiên, kết quả của các đội bóng cũng không khác gì so với cuộc cạnh tranh thứ hạng trong các trường ĐH. Hầu hết các đội bóng siêu sao Châu Âu nổi bật là Ý, Hà Lan, Tây Ban Nha, thống trị bởi vài ba câu lạc bộ từ thập kỷ này qua thập kỷ khác. Scotland cho ta một ví dụ điển hình và ít nhiều cực đoan: trong 118 năm lịch sử thi đấu, hai câu lạc bộ (Rangers và Celtic) thay nhau chiếm giải 99 lần cả thảy.

Đội bóng Scotland cũng cho ta một ví dụ rất tuyệt về trung bình cộng của những hành động bảo toàn cương vị. Một vụ xì căng đan tài chính năm 2012 dẫn tới việc đội bóng Rangers của Scotland không trả được nợ và bị từ chối tham gia thi đấu. Một câu lạc bộ mới được tái lập trên cơ sở đổ nát của Ranger, thoạt tiên được coi là hạng bét trong giới bóng chày, bởi hầu hết tiền bạc đã tiêu tan, các nhà quản lý hàng đầu và nhiều siêu sao đã ra đi, nhưng điều quan trọng nhất là nó đã duy trì được thành viên và người hâm mộ dựa trên nguồn cũ của Ranger. Nó đã nhanh chóng leo lên từng bậc thang đẳng cấp và trở thành đối thủ của Celtic chỉ trong vòng một hai mùa giải.

Chúng ta có thể rút ra điều gì từ tất cả những câu chuyện trên đây?

Điều hiển nhiên nhất là, không việc gì phải quá lo lắng về các bảng xếp hạng ĐH dù cho tổ chức nào thực hiện. Khác biệt trong một bảng xếp hạng nào đó giữa năm này và năm khác, hay khác biệt giữa các bảng xếp hạng khác nhau chắc chắn sẽ bị át đi bởi những tiếng ồn ngẫu nhiên. Nhưng ngay cả khi những thay đổi trong kết quả xếp hạng thực sự có phản ánh những thay đổi trong chất lượng hoạt động, thì trung bình cộng của những hành động nhằm bảo toàn cương vị của các trường cũng sẽ bảo đảm cho những thay đổi ấy không tạo ra tác động nào đáng kể. Với những quyết định mà thứ hạng của trường có vai trò đáng kể, ví dụ chọn trường nào để học, thì những khác biệt từ năm này sang năm khác của nhà trường chẳng có ý nghĩa gì.

Hai là, có vẻ như ít có khả năng hiệu trưởng nhà trường hoặc đội ngũ quản lý cấp cao có thể làm khác đi trong cách hoạt động hiện nay của nhà trường. Tối đa là một thập kỷ trong cương vị lãnh đạo đơn giản chỉ là quãng thời gian quá ngắn để tạo ra một sự thay đổi bền vững trong vị trí xếp hạng của trường. Ngược lại, sự ra đi của hiệu trưởng hay các nhà quản lý cấp cao khác, ngay cả trong tình trạng bị giáng chức đi nữa, dường như không có mấy tác động đến cương vị của nhà trường.

Nhưng, có một câu hỏi lớn cần đặt ra, đó là liệu thứ bậc ổn định ấy có lợi hay có hại cho sứ mạng giảng dạy và nghiên cứu của nhà trường với tư cách là một tổng thể? Nếu như có hại, liệu ta có thể làm được gì?

Với hoạt động nghiên cứu, những thuận lợi trong việc phân tầng là hiển nhiên. Các trường trên đỉnh thang bậc của hệ thống đã và đang tiếp tục tạo ra những ấn phẩm khoa học trên các tập san hàng đầu, giành được giải Nobel và mọi loại giải thưởng khác, v.v. Tuy thế, có khá nhiều trường hợp cho thấy sẽ có lợi hơn khi cương vị tinh hoa vĩnh cửu này bị thách thức bởi những quan điểm bên ngoài.

Với đào tạo ĐH, kinh nghiệm Hoa Kỳ cho thấy một hệ thống phân tầng cao độ sẽ không đem lại kết quả tốt. Cạnh tranh giành cương vị sẽ kích thích các trường có thứ hạng cao hạn chế việc tuyển sinh, mang lại đào tạo chất lượng cao cho một số nhỏ, dĩ nhiên là với học phí cao ngất. Vì những trường sinh sau đẻ muộn bước vào hệ thống với một cương vị thấp, một hệ thống thang bậc quá dốc và quá ổn định có nghĩa là số sinh viên phải theo học những trường nghèo sẽ chiếm tỉ lệ ngày càng tăng, và những trường này phải chật vật khó khăn lắm mới duy trì được chất lượng tối thiểu.

Liệu có thể làm gì chăng, để san bằng thứ bậc và tăng cường sự thay đổi giữa các thứ bậc? Các đội bóng siêu sao đã áp dụng giải pháp như trả lương khủng và hệ thống phân đội tăng cường để tuyển dụng những cầu thủ mới. Có thể hình dung một kịch bản tương tự cho bối cảnh ĐH, nhưng điều này có vẻ ít có khả năng giành được sự ủng hộ.

Một cách đáp ứng có vẻ hợp lý hơn là thay đổi ưu tiên cấp ngân sách. Nếu, như ta thường thấy, thành công hay thất bại trong cuộc đua địa vị phần lớn đã được quyết định trước, hệ thống cấp ngân sách theo lối khen thưởng và khích lệ thành công lại thường bị hiểu sai. Sự hỗ trợ lẽ ra phải dựa trên nhu cầu thay vì dựa trên những thuận lợi có tính chất lịch sử và còn khuếch đại nó. Về mặt này, đề xuất của Tổng thống Obama về việc mở rộng lối vào cao đẳng cộng đồng là một bước đi đúng hướng.

 

John Quiggin is a fellow in economics at the University of Queensland; a columnist for The Australian Financial Review; a blogger for Crooked Timber; and the author of Zombie Economics: How Dead Ideas Still Walk Among Us (Prince­ton University Press, 2010).