Phạm Thị Ly (2015)
(Bài đăng báo Văn hóa Nghệ An số ra ngày 11.03.2015)

Đối thoại Giáo dục toàn cầu là một chuỗi sinh hoạt học thuật thường niên của Hội Đồng Anh, nhằm tập hợp các nhà lãnh đạo trong khu vực chính phủ, doanh nghiệp và trường đại học (ĐH) từ nhiều nước trong một diễn đàn thảo luận đa quốc gia về những vấn đề trọng yếu nhất đã và đang có tác động mạnh mẽ đến GDDH trên thế giới. Đối thoại Giáo dục Toàn cầu năm 2015 tổ chức tại Seoul, Hàn Quốc, ngày 26 và 27 tháng 2 năm 2015. Chủ đề năm nay là vai trò của công nghệ trong cuộc đua tài năng toàn cầu. Bài viết này ghi nhận những vấn đề và ý tưởng đã được thảo luận tại diễn đàn này.

Tiến bộ công nghệ: cơ hội hay thách thức cho việc lãnh đạo GDĐH, cho hoạt động giảng dạy và nghiên cứu?

Từ góc nhìn của người lãnh đạo một trường ĐH dành cho phụ nữ đã có hơn một trăm năm tuổi, Sun Hye Hwang (Trường ĐH Sookmyung Women’s University, Korea) cho rằng tiến bộ công nghệ đã mang lại cơ hội to lớn cho người học đặc biệt là phụ nữ trên ít nhất hai phương diện: đưa giáo dục bậc cao đến với những phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn ít cơ hội tiếp cận ĐH, và mang lại cơ hội mở rộng nguồn tri thức vượt ra xa hơn giới hạn của nhà trường. Nhưng nó không chỉ là một cơ hội, mà còn đặt ra những thách thức to lớn cho việc dạy và học cũng như việc vận hành nhà trường. Đàm Quang Minh (Trường ĐH FPT, Việt Nam) cho rằng ngày nay người thầy không thể tiếp tục cách dạy như trước đây được nữa, bởi lẽ sinh viên ngày nay, những người được gọi là i-generation[1] (thế hệ thông tin) thành thạo công nghệ thông tin và tiếp cận nhiều nguồn thông tin hơn thế hệ trước rất nhiều, sẽ có thể kiểm chứng gần như lập tức những gì thầy giảng. Là một trường ĐH tư chỉ mới 8 năm tuổi, FPT được một doanh nghiệp IT thành lập là để đào tạo lực lượng lao động trong công nghệ thông tin cho chính họ, vì vậy việc đưa tiến bộ công nghệ vào việc dạy và học là một nhu cầu tất yếu. Họ đang đi đầu trong những nỗ lực đó, điển hình là những đầu tư để thực hiện hệ thống nộp bài làm trực tuyến, cùng với việc sử dụng Turnitin, hệ thống này cho phép phát hiện đạo văn ngay tức khắc[2]. Đào tạo người thầy có khả năng thích ứng trong môi trường công nghệ cao này là một thách thức lớn, nhưng chính những thách thức đó là điều kiện cho sự trưởng thành của nhà trường cũng như của từng cá nhân.

Điều quan trọng hơn là những thách thức mà tiến bộ công nghệ đặt ra cho giáo dục ở một tầm sâu hơn: thế hệ Ingày nay hầu như không thể sống thiếu iphone, ipad, ipod, laptop, v.v. những thứ đã làm thay đổi sâu sắc cách sống và làm việc của họ (Huang Hoon Chng (NUS, Singapore). Họ sử dụng internet để kết bạn, giao tiếp, giải trí, mua bán, tìm kiếm thông tin… nhưng mức độ sử dụng điện thoại thông minh, máy tính, thiết bị truyền thông v.v. càng nhiều, thì thời gian dành cho giao tiếp xã hội và những tương tác cá nhân trực tiếp càng giảm (Andy Chun, City University of Hong Kong). Thế hệ này đòi hỏi nhiều hơn, tập trung cho những nhu cầu của bản thân họ hơn, ít quan tâm hơn tới những vấn đề chung của xã hội và lợi ích công. Sun Hye Huang cho rằng trong lúc nhấn mạnh những cơ hội mà tiến bộ công nghệ mang lại, chúng ta đã đánh mất nhiều nỗ lực lẽ ra phải giành cho việc xây dựng nhân cách của người học thông qua củng cố những mối liên kết xã hội, không chỉ là về mặt kiến thức, mà còn là về cảm xúc và xây dựng sự gắn bó với cộng đồng.

Tiến bộ khoa học công nghệ nói chung, tốc độ phát triển những tri thức mới và khối lượng khổng lồ của những tri thức và thông tin mà con người tạo ra khiến mỗi người ngày càng khó nắm bắt đủ kiến thức dù chỉ để giải quyết một vấn đề nào đấy. Tính chất chuyên ngành của từng lãnh vực trở thành mong manh. Luôn luôn phải có chuyên gia của nhiều lãnh vực khác nhau cùng làm việc với nhau để tạo ra một sản phẩm hay giải pháp. Bởi vậy bản thân kiến thức không quan trọng bằng việc áp dụng kiến thức (King L. Chow, HKUST, Hong Kong). Bởi vậy, xu hướng đang hình thành của GDDH thế kỷ 21 là phổ biến kiến thức và chia sẻ kinh nghiệm một cách hiệu quả ở quy mô càng rộng càng tốt. Tuy vậy, cùng với xu hướng sản xuất hàng loạt là xu hướng cá nhân hóa việc học, bởi con người sinh ra vốn không bình đẳng, nên giáo dục cũng không thể có một kích cỡ vừa cho tất cả mọi người. Chow cho rằng đang có nhiều thứ bị các trường ĐH bỏ quên: nhiều trường không quan tâm tới việc kích thích người học khám phá những lĩnh vực chuyên ngành mới, giúp người học phát triển mối quan tâm của chính họ thay vì dẫn dắt họ hướng tới những mối quan tâm quá cụ thể và tức thời. Nhiều trường không chú ý giúp người học tự khám phá tri thức mới, hiện thực hóa những gì được học, biến những gì được học thành tri thức nội tại.

Công nghệ ảnh hưởng đến cách chúng ta thực hiện hoạt động nghiên cứu như thế nào? Anders Karlsson (Phó Chủ tịch Elsevier) trình bày những con số cho thấy mức độ hợp tác quốc tế cũng như số bài báo khoa học có đồng tác giả đang tăng nhanh ở nhiều nước, đặc biệt là những nước đang dẫn đầu thành tích và năng suất nghiên cứu khoa học. Ông cũng cho rằng công nghệ thông tin và truyền thông đã thay đổi cách khai thác và sử dụng dữ liệu, cách làm việc cùng nhau của các nhà khoa học đến mức những khái niệm về đạo văn, về đồng tác giả cần phải được định nghĩa lại.

Trường ĐH của ngày mai

Trường ĐH của ngày mai sẽ như thế nào? Liệu dạy và học online có biến thành một chuẩn mực mới, hay sẽ là một hình thức pha trộn nào đấy? Liệu sinh viên có thể cá nhân hóa việc học của mình bằng cách học nhiều môn tự chọn khác nhau ở những trường khác nhau? Làm sao bảo đảm chất lượng bằng cấp trong những trường hợp ấy? Huang Hoon Chng (NUS, Singapore) cho biết một cuộc khảo sát với lãnh đạo các trường ĐH do Scott Jaschik thực hiện năm 2013 đã cho thấy, 47% hiệu trưởng đồng ý rằng đào tạo trực tuyến mở đại trà (MOOC) là một mối đe dọa đối với mô hình hoạt động hiện nay của các trường ĐH. Tuy vậy cũng có ý kiến cho rằng, sinh viên chỉ học khi họ phải trả tiền, và chỉ làm bài khi được cho điểm, với tâm lý ấy thì tương lai của MOOCs sẽ còn rất xa mới trở thành nguy cơ giành hết người học của các trường.

Kumiko Aoki (Trường ĐH Mở, Nhật Bản) cho rằng những thách thức đặt ra cho trường ĐH của ngày mai là nhu cầu xã hội ngày càng đa dạng, thành phần người học cũng ngày càng khác nhau; trong lúc chi phí cho việc học đang tăng, thì khoảng cách giữa kỹ năng học được trong nhà trường và kỹ năng cần cho cuộc đời sau này dường như ngày càng mở rộng, nói cách khác, các trường ĐH đã đáp ứng không lấy gì làm tốt với những thay đổi của  bối cảnh môi trường. Hệ quả là, tấm bằng hay bảng điểm không nói lên điều gì đáng kể về năng lực thực sự của một con người. Bởi vậy, bà cho rằng, trường ĐH của ngày mai phải thay đổi: chức năng của nó không chỉ còn là trang bị kiến thức và bằng cấp cho người học, mà là nơi tạo ra tri thức và thiết lập mạng lưới giao tiếp xã hội. Trường ĐH của ngày mai sẽ nhấn mạnh chủ yếu là kết quả học tập, và dựa trên một nền giáo dục lấy phát triển năng lực làm nền tảng. Tín chỉ sẽ không dựa trên số giờ sinh viên dành cho việc học, mà dựa trên những năng lực nào người học đã đạt được.

Nếu trường ĐH của hôm nay dựa trên diễn giảng bằng lời, người học ngồi và nghe, nhằm vào mục tiêu tìm kiếm việc làm trong một nghề nghiệp cụ thể, chương trình học được quyết định từ bên trên, thi cử kiểm tra là một hệ thống đóng chặt, phương tiện chính và bút và giấy; thì trường ĐH của ngày mai dựa trên các phương tiện nghe nhìn với hình ảnh và âm thanh, người học được nhìn thấy và trải nghiệm; nó nhằm vào những kỹ năng cơ bản hữu dụng trong bất cứ bối cảnh hay lĩnh vực nào; nhấn mạnh sự hợp tác và vai trò trung tâm của người học, với phương tiện chính là màn hình điện thoại, máy tính bảng và máy tính(Andy, City University of Hong Kong).

Trường ĐH của ngày mai phải đáp ứng nhu cầu của thế hệ i, một thế hệ có những đặc điểm khác xa với cha anh họ. Joon Heo (Yonsei University) cho rằng 65% trẻ em thế hệ này sẽ làm những loại công việc ngày nay chưa hề có. Thế hệ I là những “công dân kỹ thuật số” (digital citizen), những người làm nhiều việc cùng lúc, giữ liên lạc thường xuyên với mạng xã hội qua email, face book, twitter, v.v… sử dụng liên tục các phương tiện truyền thông như iphone, ipod, ipad…cả ở nhà lẫn ở trường, vì vậy họ tiếp xúc với một khối lượng thông tin khổng lồ từ đủ mọi nguồn và do đó họ có những mong đợi hoàn toàn khác với những mong đợi mà thế hệ phụ huynh của họ đặt ra cho nhà trường truyền thống. Đó là động lực để nhà trường ngày nay tự biến đổi mình trở thành “trường ĐH của ngày mai”, bởi lẽ bối cảnh hôm nay đã khác rất nhiều so với chỉ một thập kỷ trước đây, và ngày mai sẽ còn khác hôm nay nhiều hơn thế nữa.

Các trường hiện nay có sẵn sàng cho thế hệ i? Việt Nam, một đất nước có 92 triệu dân, nhưng có đến 134.000 thuê bao điện thoại di động tính đến tháng 1-2014, và 20.000 tài khoản facebook, thời gian trung bình một người dùng internet dành cho việc lướt net mỗi ngày là 4giờ 37 phút và dùng điện thoại đi động internet là 1giờ 43 phút. Giới trẻ đã sẵn sàng đến mức nào trong việc học tập bằng các thiết bị di động (M-learning)? Nguyễn Ngọc Vũ (Trường ĐH Sư phạm TPHCM, Việt Nam) thực hiện một khảo sát và thử nghiệm với 111 sinh viên khoa Anh; kết quả cho thấy những người thường xuyên sử dụng internet tại nhà chiếm 86%, nhưng có đến 73,2% chưa bao giờ học một khóa trực tuyến qua ĐTDĐ. Thông qua khóa học thử nghiệm, 79% người học đồng ý rằng M learning hỗ trợ tích cực cho việc học theo lối truyền thống, và 56% cho rằng điều này mang lại cho họ thêm hứng thú với việc học. Về mặt kết quả học tập, 100% người học đạt trình độ C 1 khi kết thúc khóa học.  Điều đó nói lên rằng sinh viên Việt Nam, ít ra là ở một thành phố lớn, đã sẵn sàng cho việc tiếp thụ M-learning, nhưng các trường nói chung thì lại có rất ít đáp ứng với nhu cầu ấy.

Một trường hợp khác là chương trình đào tạo tiến sĩ trực tuyến của Laureat. Laureat đã thực hiện chương trình này với hàng ngàn học viên từ 45 quốc gia hoàn toàn dựa trên môi trường online, nhằm đáp ứng nhu cầu học tập trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh, nơi chốn nào của người học. Tuy vậy, nó không chỉ là truyền thụ một chiều. Tiến bộ công nghệ đã cho phép họ thực hiện chương trình này với mức độ tương tác rất cao không khác chi những khóa học truyền thống (Clare Pickles, Laureat Online Education).

Liệu các trường ĐH hiện nay có đáp ứng được mong đợi của thị trường lao động? Từ góc nhìn của giới doanh nghiệp, Obert Hoseanto (Microsoft Indonesia) cho rằng họ phải thường xuyên đào tạo lại sinh viên tốt nghiệp từ các trường để họ có thể đáp ứng được đòi hỏi của thế giới việc làm. Tae Eog Lee (Viện KHCN Tiên tiến Hàn Quốc- KAIST) cho rằng khoảng cách kỹ năng giữa những gì nhà trường mang lại và những gì cần cho thế giới việc làm là một thực tế phổ biến trên toàn thế giới. Tuy nhiên, nhu cầu của các doanh nghiệp bao giờ cũng rất cụ thể và tức thời, trong lúc đó trường ĐH là một cái gì rộng lớn hơn và mang lại những năng lực có ý nghĩa nền tảng hơn, do vậy việc đưa quan điểm của giới doanh nghiệp vào chiến lược của trường có nguy cơ thu hẹp hoạt động của nhà trường vào những mục tiêu quá gần và quá cụ thể.

Tương lai của GDĐH

Câu hỏi về tương lai của GDĐH là điều được nhiều người chia sẻ tại diễn đàn Đối thoại Giáo dục năm nay.  MOOC xuất hiện lần đầu năm 2008 ở Canada. Từ đó đến nay những công ty như Futurelearn hay Coursera đã tiếp tục phát triển nhiều hình thức đào tạo trực tuyến tương tự như Khan Academy đã làm. Điều quan trọng hơn là nhiều trường đã đưa đào tạo trực tuyến vào của hoạt động họ như một phần của những chương trình có cấp bằng, và tất nhiên là không miễn phí. Tương lai của MOOC, của đào tạo trực tuyến (online learning), và của lối học tập qua các thiết bị di động (mobile learning) sẽ như thế nào? Liệu nó có thay thế nhà trường truyền thống và xóa sổ các trường ĐH dựa trên cơ sở vật chất hữu hình và đào tạo mặt đối mặt hiện nay?

MOOC rõ ràng là đã tạo ra một cơ sở hạ tầng mới, một phương thức đào tạo mới và mang lại cho người học những gì chưa từng có trước đây trong nhà trường truyền thống. Simon Nelson (Futurelearn) cho rằng GDĐH xưa nay vốn có tính “kỳ thị”: nó không dành cho tất cả mọi người, mà chỉ dành cho những người có đủ khả năng chi trả và/hoặc có tư chất thông minh đặc biệt hay ít ra là đạt đến một mức độ phát triển nhất định trong trí tuệ. MOOC đưa ra một kho dữ liệu mở, kiến thức mở, dựa trên công nghệ mở, và cho tất cả mọi người. Joon Heo đưa ra hình ảnh các loại mì ăn liền đủ mọi nhãn hiệu để diễn đạt bữa tiệc buffet giáo dục ngày nay: ta có thể chọn bất cứ môn nào mình muốn, và học nhiều ít tùy theo khả năng ta có thể hấp thụ. Đã bắt đầu có xu hướng phát triển “peer assessment” (dùng ý kiến đánh giá của bạn học như một công cụ chính thức để xem xét kết quả học tập, coi việc học lẫn nhau là điều quan trọng), và khích lệ người học tạo ra các nội dung dạy học, coi dạy cũng là một cách học.  Thêm vào đó, sự phát triển của công nghệ chế tạo người máy ngày nay đã tạo ra những người máy ngày càng giống con người, có khả năng tương tác, và tham gia vào đời sống hàng ngày trong đó có hoạt động giảng dạy, và làm nhiều công việc thay cho người thầy.

Bởi vậy nhiều người nghĩ rằng GDĐH đang đối mặt với một tương lai không chắc chắn, bởi có rất nhiều điều chúng ta chưa biết, và những gì chúng ta đã biết có thể thay đổi rất nhanh. Tuy nhiên, như nhiều người khác, Simon Nelson vẫn tin rằng, ngày mai chưa phải là ngày tận thế đối với GDĐH. Nó chắc chắn sẽ thay đổi, nhưng sẽ không bị thay thế.

Mặc dù kết quả bỏ phiếu tại chỗ cho thấy hầu hết thành viên dự hội thảo có một cái nhìn lạc quan về tương lai của GDDH, nhiều người chia sẻ những nhận thức và ý tưởng về sự đổi thay tất yếu của nó. GDDH đã trở thành đại chúng trên mọi phương diện, và kéo theo nó là sự thay đổi sâu sắc trong thành phần và đặc điểm của người học, cũng như sự thay đổi của bối cảnh. Cuộc đua giành tài năng trên phạm vi toàn cầu là một hiện thực mà không ai có thể phủ nhận. Chính phủ các nước, giới doanh nghiệp, giới đại học rất cần có thêm nhiều cuộc đối thoại để có thể đáp ứng tốt nhất với những thay đổi của một thế giới đang nối kết ngày càng chặt chẽ qua phương tiện kỹ thuật số. Chính sách nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra và sử dụng người tài, khi thế giới trở thành một ngôi làng toàn cầu, những thất bại trong chính sách đào tạo và sử dụng người tài của một nước tất yếu sẽ dẫn tới chảy máu chất xám và đưa họ vào tình thế bất lợi trong cạnh tranh. Các trường ĐH sẽ không còn lý do để tồn tại nếu họ vẫn tiếp tục hoạt động theo lối truyền thống mà không tính đến một hiện thực là thế hệ i ngày nay thành thạo công nghệ hơn, tiếp thụ một nguồn thông tin lớn hơn cha anh họ gấp bội, và vì thế hoàn toàn không cần đến lối dạy truyền thụ tri thức một chiều.

Tiến bộ công nghệ đã làm thay đổi diện mạo cuộc sống của chúng ta, thay đổi cách sống, cách làm việc, và đặc biệt là cách giao tiếp của chúng ta một cách vô cùng sâu sắc. Vì vậy nhiều khái niệm cần phải định nghĩa lại, trong đó có khái niệm trường ĐH.  Trường ĐH tương lai sẽ tiếp tục lớn mạnh nhưng chắc chắn là với một diện mạo mới.

Ghi chú

[1] Thế hệ i (i-generation) là thuật ngữ chỉ những người sinh từ năm 1985 về sau, thế hệ đầu tiên trưởng thành trong môi trường mà việc sử dụng công nghệ truyền thông trở thành phổ biến rộng rãi. Họ là những người bị ám ảnh với việc sử dụng các thiết bị truyền thông như iphone, ipod, ipad, v,v.

[2] Về nguyên tắc, Turnitin cho phép phát hiện đạo văn bằng mọi ngôn ngữ, nhưng chỉ trong điều kiện tài liệu gốc đã có bản mềm trực tuyến.