Phạm Thị Ly (2014)
(Bài đăng Tuổi Trẻ Cuối Tuần, số 6–2014, 22 -2- 2014 với tên ĐH ngoài công lập vì sao rối ren?)

Vụ việc tranh chấp quyền lãnh đạo vừa qua tại Đại học Hùng Vương, cũng như nhiều vụ tranh chấp ngấm ngầm hoặc công khai ở các trường ĐT tư khác xảy ra trước đây, đã tạo nên một cái nhìn rất tiêu cực trong công chúng về ĐH ngoài công lập (NCL), khiến uy tín của trường NCLbị ảnh hưởng nặng nề. Tình hình bi đát trong tuyển sinh ở các trường NCL mấy năm gần đây có phần là do niềm tin đối với các trường NCL đã giảm sút trầm trọng. Điều này không có lợi cho cả hệ thống GDĐH, vì khu vực ngoài công lập cần được khích lệ để đáp ứng nhu cầu đại chúng hóa GDĐH trong lúc nguồn lực nhà nước không đủ để đáp ứng.

Trong một bài viết trước đây[1] chúng tôi đã nêu ý kiến về khoảng trống chính sách khi chuyển từ những trường ĐH được thành lập theo mô hình ĐH dân lập sang mô hình trường ĐH tư thục, thực chất là chuyển từ sở hữu tập thể thành sở hữu cá nhân. Khoảng trống đó đã gây ra mâu thuẫn và tranh chấp tại nhiều trường NCL, và là lý do đến nay một số trường vẫn chưa hoàn tất thủ tục chuyển đổi sang loại hình ĐH tư thục dù chủ trương chuyển đổi đã bắt đầu từ 2006.Thực trạng khó khăn hiện nay của các trường NCL cần được tháo gỡ không phải bằng những giải pháp nhất thời như mở rộng cửa tuyển sinh, mà bằng một chủ trương đúng đắn và minh bạch, từ đó cải thiện chất lượng trường NCL và thay đổi định kiến của công chúng.

Diễn tiến về mặt chính sách đối với trường NCL

Theo GS. Lâm Quang Thiệp,có thể xem hệ thống GDĐH hiện đại của Việt Nam bắt đầu với việc thành lập trường Cao đẳng Y khoa và một số trường cao đẳng khác vào đầu thế kỷ 20 và việc hình thành Viện Đại học (VĐH) Đông Dương tương đối hoàn chỉnh tại Hà nội vào năm 1943. Trong hệ thống GDĐH hiện đại đó, đã có một số trường đại học tư hình thành ở Miền Nam Việt Nam vào thời kỳ 1954 đến 1975, như VĐH Đà Lạt, VĐH Vạn Hạnh, VĐH Minh Đức…v.v. Sau năm 1975 một hệ thống GDĐH đồng nhất được xây dựng trên cả nước theo mô hình “xã hội chủ nghĩa” kiểu cũ, tức là mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Trong hệ thống kinh tế xã hội đó thành phần kinh tế tư nhân không được thừa nhận, do đó các trường ĐH tư tồn tại trước năm 1975 tại Miền Nam Việt Nam đã bị đóng cửa[2].

Từ năm 1987 Việt Nam từ bỏ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, chấp nhận mô hình kinh tế thị trường “theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh được công nhận, đó là cơ sở để phát triển hệ thống GDĐH NCL. Năm 1993 Quy chế đầu tiên về trường ĐH tư thục đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành[3]. Tuy quy chế này vẫn tồn tại, không bị hủy bỏ, nhưng nó đã không được đưa vào cuộc sống. Năm 1994 Bộ GD-ĐT ban hành Quy chế tạm thời về trường ĐH dân lập và Quy chế tạm thời trường đại học bán công, và đến năm 2000 thì có Quy chế chính thức. Các văn bản này đã thể hiện một quan điểm dè dặt đối với sở hữu tư nhân và phân chia lợi nhuận. Nhìn chung, mô hình bán công và dân lập dựa trên nền tảng sở hữu tập thể và có nhiều yếu tố phi lợi nhuận, vì nhà nước quy định phần chênh lệch thu chi phải dành cho quỹ dự trữ bắt buộc, đầu tư cơ sở vật chất; trả lãi và hoàn trả vốn góp, vốn vay.Thật ra đó cũng là một hình thức phân chia lợi nhuận nhưng dưới một ngôn từ thận trọng, thể hiện mối e ngại với tư nhân hóa và thương mại hóa giáo dục, e rằng điều này sẽ khiến lĩnh vực giáo dục tuột khỏi tầm kiểm soát của nhà nước.

Bước ngoặt đối với GDĐH NCL là Luật Giáo dục 2005 và Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 2/8/2006 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục, tại đây 2 loại hình trường đại học bán công và dân lập bị xoá bỏ, chỉ còn một loại hình trường đại học NCL duy nhất là trường đại học tư thục (ĐHTT). Năm 2005, Quy chế tổ chức và hoạt động của trường ĐHTT được ban hành theo Quyết định 14/2005/QĐ-TTg ngày 17/01/2005. Với Quy chế này, các khái niệm “Góp vốn”, “Phần vốn góp”, “Vốn điều lệ”, “Vốn có quyền biểu quyết”, “Thành viên sáng lập’’, “Đại hội đồng cổ đông”, “Hội đồng quản trị”vốn là những khái niệm gắn liền với doanh nghiệp, lần đầu tiên được sử dụng cho lĩnh vực giáo dục đào tạo (Điều 3). Điều này thể hiện rất rõ quan điểm xem trường tư thục là một doanh nghiệp vì lợi nhuận. Toàn bộ tài sản của trường thuộc sở hữu của các nhà đầu tư (Điều 35). Thu nhập còn lại sau khi thực hiện nghĩa vụ và trích lập quĩ, được phân chia cho các thành viên góp vốn theo tỷ lệ vốn góp (Điều 36). Cổ đông có quyền chuyển nhượng và rút vốn. Trong trường hợp nhà trường bị giải thể, việc xử lý về tài chính, tài sản được áp dụng theo quy định của pháp luật về giải thể doanh nghiệp.

Theo các văn bản quy phạm pháp luật, thì từ năm 2006 loại hình bán công và dân lập đã bị xóa sổ, chỉ còn hai loại hình là công lập và tư thục, và Quy chế ĐHTT chỉ bao hàm một mô hình duy nhất là mô hình vì lợi nhuận không khác gì các doanh nghiệp. Vì vậy từ đó đến nay vấn đề phân biệt giữa trường vì lợi nhuận và không vì lợi nhuận không ngừng được đặt ra. Tại Nghị quyết 05 Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan “nghiên cứu làm rõ những vấn đề về sở hữu, tính chất lợi nhuận và phi lợi nhuận, trách nhiệm của các cơ sở và hình thức xã hội hoá trong từng lĩnh vực, kiến nghị các cơ chế, chính sách phù hợp”. Tháng 1/2006 Thủ tướng Chính phủ lại có Chỉ thị 193 yêu cầu trình cơ chế phi lợi nhuận vào cuối năm đó và trong 2 năm (2008 và 2009) một lần nữa cơ chế này lại được trao đổi khi dự thảo Nghị định hợp tác đầu tư về giáo dục với nước ngoài. Kiến nghị của Đoàn giám sát quốc hội 5/2010 cũng đề xuất Chính phủ sớm ban hành các tiêu chí xác định trường ĐH, CĐ ngoài công lập hoạt động theo nguyên tắc “không vì lợi nhuận”, và “vì lợi nhuận hợp lý”. Mãi đến khi Luật GDĐH ban hành ngày 18/6/2012 và có hiệu lực từ 1/1/2013, thì lần đầu tiên, “không vì lợi nhuận” mới được định nghĩa là “phần lợi nhuận tích lũy hằng năm là tài sản chung không chia, để tái đầu tư phát triển cơ sở giáo dục đại học; các cổ đông hoặc các thành viên góp vốn không hưởng lợi tức hoặc hưởng lợi tức hằng năm không vượt quá lãi suất trái phiếu Chính phủ”.Tuy nhiên, định nghĩa này chưa thật thỏa đáng, vì nó đã bỏ qua vấn đề gốc rễ là sở hữu và cơ cấu quyền lực, như chúng tôi đã nêu ra trong một bài viết trước đây.

Đồng thời, Luật GDĐH 2013 cũng quy định thành viên Hội đồng Quản trị trường ĐHTT bao gồm hai loại (a) Đại diện của các tổ chức, cá nhân có số lượng cổ phần đóng góp ở mức cần thiết theo quy định; và (b) Hiệu trưởng; đại diện cơ quan quản lý địa phương nơi cơ sở GDĐH có trụ sở; đại diện tổ chức Đảng, đoàn thể; đại diện giảng viên. Điều này có lẽ là nhằm làm giảm tính chất “vì lợi nhuận” của trường ĐHTT, và tăng quyền lực của giới học thuật. Tuy nhiên, nó tiềm tàng khả năng nảy sinh mâu thuẫn rất cao, do đó, hoặc là nó trở thành hình thức, hoặc không có khả năng đi vào thực tế.

Những mâu thuẫn chính trong chính sách

Luật Giáo dục 2005 “cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục vì mục đích vụ lợi”(Điều 20). Luật GDĐH 2013 tiếp tục nhắc lại điều này: “cấm lợi dụng các hoạt động GDĐH vì mục đích vụ lợi” (Khoản 3 Điều 11). Từ điển tiếng Việt định nghĩa “lợi dụng” là “dựa vào điều kiện thuận lợi nào đó để làm việc gì”; “dựa vào điều kiện thuận lợi nào đó để mưu lợi riêng không chính đáng”. Còn “vụ lợi” được định nghĩa là “chỉ mưu lợi riêng cho mình”. Trong thực tế, điều này mâu thuẫn với Quy chế ĐHTT cho phép chia cổ tức và tổ chức trường ĐH giống hệt một công ty cổ phần. Mọi hoạt động kinh doanh đều nhằm tìm kiếm lợi nhuận tức là nhằm mục đích vụ lợi. “Mưu lợi riêng không chính đáng” cần được hiểu là mọi hoạt động mưu lợi riêng phù hợp với các quy định luật pháp thì về mặt luật pháp nó phải được xem là chính đáng. Luật Giáo dục 2005 và Luật GDĐH đã thể hiện sự hạn chế trong việc kinh doanh giáo dục, nhưng Quy chế ĐHTT thì cho phép trường ĐH hoạt động theo nguyên tắc nhà đầu tư có quyền quyết định tuyệt đối khi họ nắm số lượng cổ phần đủ lớn.

Quyết định số 61/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế ĐHTT thay thế Quy chế cũ đã quy định “Tài sản là vốn góp được công nhận sở hữu tư nhân. Tài sản tăng thêm thuộc sở hữu chung của trường” nhằm mục đích làm giảm tính chất “vì lợi nhuận” của các trường, cũng thể hiện mâu thuẫn giữa một bên là công nhận mục đích tìm kiếm lợi nhuận của nhà đầu tư, một bên là hạn chế mức độ lợi nhuận mà họ có thể sở hữu. Nếu điều này được thực hiện, tức là tài sản tăng thêm không được công nhận sở hữu cá nhân, đầu tư vào giáo dục sẽ không bình đẳng với đầu tư vào các lãnh vực khác. Phần tài sản tăng thêm này thuộc quyền quản lý của HĐQT, trong khi HĐQT lại bao gồm cả những người không góp vốn (theo Khoản 3 Điều 17, Luật GDĐH) thì không xảy ra tranh chấp mới là chuyện lạ!

Nhìn chung, diễn tiến của chính sách đối với trường ĐH NCL hai mươi năm qua đã thể hiện một mâu thuẫn thường trực giữa xu hướng thị trường và quan điểm muốn kiểm soát nhà trường tránh khỏi tự do hóa và thương mại hóa (Xem Phụ lục: Tóm tắt các văn bản chính sách). Diễn tiến của chính sách thể hiện những diễn tiến trong nhận thức tuy đã trải qua nhiều thay đổi vẫn chưa bắt kịp thực tế và do đó đã gây ra mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột; đã để lại những hậu quả có thể dẫn đến sụp đổ nhiều trường NCL, và có hại cho sự phát triển của cả hệ thống, do đó cần được nghiên cứu để giải quyết rốt ráo.

Hệ quả của các chính sách

“Tình trạng đó dẫn đến một hệ quả là mặc dù các trường đại học NCL ở Việt Nam được hình thành từ nhiều phương thức khác nhau (tổ chức xã hội nghề nghiệp cấp vốn, nhóm cá nhân góp vốn, cá nhân độc quyền góp vốn, góp vốn không hưởng lãi suất, có mức độ hưởng lãi suất khác nhau…) nhưng tất cả đều tự nhận mình là “không vì lợi nhuận”. (Trích Báo cáo của Hiệp hội các Trường ĐH-CĐ NCL tại Hội nghị Đánh giá 20 Năm Phát triển Mô hình GDĐH NCL ở Việt Nam 1993 – 2013).

Việc các trường NCL tự nhận mình là phi lợi nhuận hoàn toàn mâu thuẫn với các văn bản pháp quy hiện hành như Quy chế ĐHTT, và cũng mâu thuẫn cả với thực tế hoạt động của các trường. Điều này tạo ra ba hệ quả: (1) Nhà nước rất khó biện minh cho việc giành nguồn lực công để hỗ trợ cho các ĐHTT, vì như thế nghĩa là dùng tiền thuế của người dân để tạo ra bất bình đẳng giữa doanh nghiệp cung ứng dịch vụ đào tạo và các doanh nghiệp khác; (2) Rất khó huy động nguồn hiến tặng của xã hội, vì truyền thống hiến tặng xưa nay bao giờ cũng là phục vụ lợi ích công chứ không ai hiến tặng tài sản của mình cho một nhóm các nhà đầu tư; (3)Tạo ra một phản ứng tiêu cực của công chúng, của gỉang viên và sinh viên, vì có lẽ rất ít ai tin rằng các trường ĐHTT hiện nay thực sự là các trường phi lợi nhuận.

Một hệ quả khác, là do những mâu thuẫn tiềm tàng, nhiều trường ĐH NCL không thể phát huy được năng lực của mình và tập trung cho việc nâng cao chất lượng, dẫn đến uy tín bị giảm sút, thể hiện rất rõ trong xu hướng tuyển sinh sụt giảm nghiêm trọng đến mức nhiều trường đứng trước nguy cơ đóng cửa. Thậm chí sinh viên một số trường còn bị các nhà tuyển dụng từ chối tiếp nhận, một dấu hiệu cho thấy lòng tin hạn chế của xã hội đối với các trường NCL.

Thực ra, sự dè dặt đối với việc công nhận rằng GDĐH là một loại hàng hóa dịch vụ có thể kinh doanh như những hàng hóa dịch vụ khác là điều có thể hiểu được. Thương mại hóa GDĐH là một chủ đề nhạy cảm ở nhiều nước. GDĐH thực sự là một loại hàng hóa đặc biệt, trong đó lợi ích tư và mục đích công gắn kết chặt chẽ với nhau. Thị trường GD là một thị trường mà người mua rất dễ bị tổn thương do vậy nhà nước phải có những cách thức để bảo vệ họ. Từ chỗ e ngại sở hữu tư nhân và thương mại hóa giáo dục, nhà nước Việt Nam bước hẳn sang thái cực ngược lại là đối xử với các trường giống hệt như các doanh nghiệp. Cho đến nay vẫn chưa có khung pháp lý nào cho việc thành lập và hoạt động của các trường NCL không vì lợi nhuận. Bởithế, do chính sách bất cập, tình thế vẫn tiếp tục rối ren và định kiến của công chúng vì vậy cũng rất khó thay đổi.

Thay đổi định kiến với trường NCL vì lợi nhuận

Trường NCL, hiện nay chỉ còn một hình thức là trường tư thục, do một hoặc một nhóm cá nhân bỏ vốn đầu tư nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận, cần được nhìn nhận là một điều bình thường cũng giống như người ta đầu tư xây nhà máy hay bệnh viện. Nhà nước đã thừa nhận quyền sở hữu tư nhân đối với ĐHTT cũng như thừa nhận quyền quyết định theo nguyên tắc đối vốn, tức là đã xem tất cả các trường ĐHTT như những doanh nghiệp vì lợi nhuận, trong đó nhà đầu tư là chủ, người quản lý và giảng viên là người làm thuê, sinh viên là khách hàng. Chúng ta không nên xem đó là tận thế, mà nên xem đó là điều bình thường, vì những lý do sau đây:

(1) Không thể nghi ngờ một điều là các trường ĐH vì lợi nhuận vận hành rất có hiệu quả xét về hiệu năng kinh tế. Động cơ tìm kiếm lợi nhuận là một động lực mạnh mẽ khiến các trường vì lợi nhuận đáp ứng rất nhanh với những thay đổi trong nhu cầu của người học và của nền kinh tế. Bản chất doanh nghiệp của các trường này khiến họ rất năng động trong việc sử dụng người tài, ứng dụng công nghệ mới và tối ưu hóa việc sử dụng nguồn lực.

(2) Thế giới đang biến đổi ngày càng đa dạng đặt ra những nhu cầu rất khác nhau. Vì vậy, một hệ thống GDĐH bao gồm nhiều loại hình sở hữu, nhiều mô hình vận hành sẽ có những trường ĐH với những đặc điểm mạnh yếu khác nhau và bổ sung cho nhau để đáp ứng với những nhu cầu đa dạng của người dân cũng như của đời sống kinh tế- xã hội.

Hiện nay, nhiều người vẫn còn rất dị ứng với khái niệm trường vì lợi nhuận. Tuy nhiên, đứng trên quan điểm phát triển, có thể nói “Trường vì lợi nhuận cũng tốt cho xã hội, thậm chí rất tốt nếu nó cung cấp được những dịch vụ giáo dục chất lượng cao. Còn trường phi lợi nhuận, nếu không tổ chức quản lý tốt, đào tạo kém chất lượng, thì vẫn là không tốt.”(Dương Tấn Diệp, 2012)[4]. Một số người vẫn luyến tiếc cái thời giáo dục được bao cấp và miễn phí. Một số người theo lý tưởng truyền thống, coi trường ĐH là trung tâm trí tuệ dẫn dắt mọi đổi mới trong công nghệ và tiến bộ xã hội, quan niệm rằng do vai trò đó, trường ĐH không chỉ có những cam kết với hiện tại mà còn có những nghĩa vụ cao cả với quá khứ và tương lai. Để thực hiện được những lý tưởng đó, nó phải được tự do tìm kiếm chân lý, không thể bị dẫn dắt hay đè nén bởi tiền bạc hay quyền lực. Một số người khác, thì xem trường ĐH là một phương tiện thay đổi cuộc đời của người nghèo, nói cách khác là tác nhân cho những dịch chuyển xã hội, qua đó tạo ra cơ hội công bằng và làm giảm bất công xã hội. Những lý tưởng đó dường như không mấy tương thích với mục tiêu của trường vì lợi nhuận.

Hãy nhìn xem thế giới chúng ta đang sống đã thay đổi nhanh như thế nào. GDĐH từ chỗ chỉ dành cho một thiểu số tinh hoa, nay đã trở thành không thể thiếu hầu như với số đông. Kinh tế tri thức và toàn cầu hóa càng làm nảy sinh nhu cầu lớn về lao động có kỹ năng cao. Đào tạo kỹ năng nghề nghiệp bậc cao là một nhu cầu rất lớn của cả xã hội, và là một hoạt động dịch vụ thực sự. Nhà nước theo truyền thống chỉ lo về mặt chính sách điều phối các lực lượng và nguồn lực xã hội nhằm bảo vệ lợi ích công, còn tổ chức cung ứng các loại dịch vụ là công việc của cả xã hội, trong đó khu vực tư nhân đóng vai trò ngày càng quan trọng. GDĐH là khu vực giao nhau giữa những lợi ích căn bản và lâu dài của xã hội với tư cách một tổng thể, với những mục tiêu tìm kiếm lợi ích trước mắt và ngắn hạn của các cá nhân, trong đó có người học. Nếu phó mặc cho thị trường vận hành, thì những mục tiêu phục vụ lợi ích công và dài hạn có thể sẽ không được đáp ứng. Nhưng phủ nhận vai trò của thị trường, là nhà nước tự giới hạn năng lực của mình, tự kìm hãm sự phát triển của xã hội.

Vì vậy, cần thừa nhận vai trò tất yếu của khu vực GDĐH ngoài công lập vì lợi nhuận, thừa nhận động cơ tìm kiếm lợi nhuận của họ, thừa nhận quyền sở hữu tài sản và quyền quyết định của họ trong việc tổ chức vận hành. Sẽ có người phản biện, giáo dục là một hàng hóa đặc biệt không thể kinh doanh tự do. Nó có thể làm tổn thương người học khi nhà đầu tư bán một món hàng không xứng với giá trị nhằm chạy theo lợi nhuận trước mắt. Mối lo đó có thể được giải quyết thông qua hoạt động của kiểm định độc lập và thông qua các chính sách đòi hỏi các trường tư vì lợi nhuận phải công khai minh bạch về năng lực đội ngũ và về kết quả đào tạo của mình.

Cần khẳng định là sự tồn tại các trường vì lợi nhuận không loại trừ các trường không vì lợi nhuận, và điều quan trọng nhất mà nhà nước cần làm, là có chính sách minh bạch để phân biệt và đối xử với hai loại trường này. Mỗi loại trường có những mục tiêu và sứ mạng khác nhau do đó nó không loại trừ nhau mà trái lại bổ sung cho nhau. Các trường vì lợi nhuận sẽ có lợi thế trong việc đào tạo những ngành nghề chuyên môn mà thị trường đang đòi hỏi và có triển vọng thu nhập tốt. Khi vị trí pháp lý được khẳng định và quyền sở hữu được bảo hộ lâu dài, nhà đầu tư có động cơ để đầu tư dài hạn bằng cách nâng cao chất lượng nhằm cung cấp dịch vụ tốt nhất cho khách hàng của mình, và điều này có lợi cho toàn xã hội.

Trong lúc đó, các trường công và trường NCL không vì lợi nhuận, do được ưu đãi về nguồn lực công và được tài trợ từ các nguồn thiện nguyện, không phải chịu sức ép của việc tìm kiếm lợi nhuận, sẽ có thể làm tốt nhất việc phục vụ cho những hoạt động thuần túy lợi ích công hoặc thiên về lợi ích công, là những việc mà các trường vì lợi nhuận không có động lực để làm. Chẳng hạn như đào tạo và nghiên cứu về khoa học cơ bản và khoa học xã hội, hoặc những ngành rất cần thiết cho xã hội nhưng nhu cầu của thị trường chưa đủ lớn do đó không tạo ra lợi nhuận cao, ví dụ như ngành công tác xã hội hay phát triển cộng đồng.

Kết luận

Thay vì hạn chế các trường NCL hay tránh né mô hình vì lợi nhuận, nên thẳng thắn thừa nhận sự tồn tại có thật của nó và đưa ra những chính sách giúp nó phát triển một cách đúng đắn. Không nên khích lệ việc tuyên ngôn phi lợi nhuận trong lúc thực tế thì 100% là vì lợi nhuận. Tìm kiếm lợi nhuận trong việc cung cấp dịch vụ giáo dục là một hoạt động chính đáng[5]. Nhà nước không cần phải hạn chế mức độ lợi nhuận của các trường vì lợi nhuận hoặc can thiệp vào việc quản lý vận hành của họ. ĐHTT vì lợi nhuận là một doanh nghiệp cung ứng dịch vụ đào tạo trong khuôn khổ quy định của Luật Doanh nghiệp với một số ưu đãi có mức độ nhất định. Sinh viên có quyền được xem mình là khách hàng, còn giảng viên thì nên hiểu mình là người làm thuê. Đó là bản chất của trường ĐHTT vì lợi nhuận và là một sự thật không nên phê phán hay né tránh.

Điều đáng buồn chỉ xảy ra khi ĐHTT vì lợi nhuận trở thành mô hình duy nhất của GDĐH ngoài công lập. Nhà nước cần tận dụng những thế mạnh của trường ĐHTT vì lợi nhuận, đồng thời bổ khuyết cho những hạn chế của nó bằng loại hình trường NCL không vì lợi nhuận, ở đó tiếng nói của giới chuyên môn, của các nhà khoa học và hoạt động giáo dục, của những người đại diện và bảo vệ cho lợi ích công của xã hội được coi trọng. Trường NCL không vì lợi nhuận cần được khẳng định đặc điểm quan trọng nhất của nó là không thuộc về sở hữu tư nhân, mà thuộc về sở hữu cộng đồng, do đó nó không bị chi phối bởi đồng tiền hay quyền lực, mà được lãnh đạo bằng một Hội Đồng Trường (HĐT) bao gồm đại diện của tất cả các bên liên quan: đại diện nhà nước, nhà tài trợ,  chủ doanh nghiệp, chính trị gia, nhà giáo dục, nhà hoạt động xã hội, nhà quản lý, giảng viên và sinh viên. Chủ tịch HĐT do thành viên bầu chọn.

Cần minh bạch hai loại hình trường này. Một trường ĐH không thể nào vừa vì lợi nhuận vừa không vì lợi nhuận. Thực tiễn chính sách của chúng ta đang trộn lẫn loại hình vì lợi nhuận và phi lợi nhuận trong đó hai lực lượng giới đầu tư và giới học thuật do khác biệt lợi ích và mục tiêu, nhiều khi không tìm được tiếng nói chung và tạo ra những mâu thuẫn khó giải quyết. Quả là vô lý khi đòi hỏi nhà đầu tư bỏ vốn xây dựng trường phải chấp nhận một cơ cấu quyền lực mà tiếng nói của họ không hoàn toàn quyết định như trong mô hình dân lập trước đây đã từng tồn tại. Cũng vô lý khi giới học thuật không có tiếng nói quyết định trong những vấn đề về học thuật, đào tạo, và tiêu chuẩn chất lượng. Trường NCL không vì lợi nhuận là nơi họ có thể có tiếng nói; và đó là một trong những lý do trường NCL không vì lợi nhuận là cần thiết để bổ khuyết cho trường NCL vì lợi nhuận. Cả hai loại trường này đều cần có không gian để phát triển và đều đóng góp cho sự phát triển lành mạnh của xã hội.

 

PHỤ LỤC: Diễn tiến trong chính sách đối với trường ngoài công lập ở Việt Nam

Thời gian Tên văn bản Nội dung liên quan Những điểm đáng lưu ý
Ngày 14 /1/1993 Nghị quyết 4 BCH TW Đảng khóa 7 Chuyển một số trường công sang bán công. Khuyến khích mở trường dân lập. Cho phép mở trường tư thục ở bậc ĐH Công nhận sự tồn tại của bốn loại hình sở hữu: công lập, bán công, dân lập, và tư thục
Ngày 24/5/

1993

Quyết định số 240/TTg của Thủ tướng Chính phủ Ban hành Quy chế ĐH Tư thục § HĐQT bao gồm không quá 2/3 số thành viên đại diện cho các chủ đầu tư;   ít nhất phải có 1/4 số thành viên do Bộ trưởng Bộ GD trực tiếp chỉ định; ít nhất 2 thành viên được bầu đại diện cho đội ngũ cán bộ giảng dạy

§ Chưa có điều khoản nào đề cập vấn đề lợi nhuận

Ngày 3/1/

1994

Quyết định số 04/QĐ-TCCB của Bộ GD-ĐT Quy chế Tạm thời trường đại học bán công “Trường đại học bán công là đơn vị sự nghiệp hoạt động theo phương thức lấy thu để bù chi”
ngày 21/1/

1994

Quyết định số 196/QĐ-TCCB Quy chế tạm thời trường đại học dân lập Xác lập sở hữu tập thể của trường ĐH dân lập
Ngày 19/8

/1999

Nghị   định 73/1999/NĐ-CP

của Chính phủ khuyến khích xã hội hóa

 

Điều 4 đã xác định: *Bán công là cơ sở được thành lập trên cơ sở liên kết giữa tổ chức nhà nước với   các tổ chức   không phải tổ chức nhà nước

* Dân lập: là cơ sở do tổ chức đứng ra thành lập, được đầu tư bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước

* Tư nhân: là cơ sở do cá nhân, hộ   gia đình thành   lập và quản   lý điều hành

§  Lợi nhuận được chia theo tỉ lệ vốn góp

 

§  Quy định nhiều ưu đãi về thuế: miễn tiền sử dụng đất, thuế giá trị gia tăng, giảm thuế thu nhập DN, miễn thuế thu nhập cá nhân với lợi nhuận từ vốn góp

Ngày 18/7/

2000

Quyết định 86/2000/

QĐ-TTg

 

Ban hành Quy chế trường đại học dân lập §  Tài sản của trường thuộc quyền sở hữu tập thể của những người góp vốn đầu tư, các giảng viên, cán bộ và nhân viên nhà trường

§  HĐQT bao gồm: Đại diện của tổ chức xin thành lập trường; đại diện các nhà đầu tư ; đại diện cho giảng viên, nhân viên; Hiệu trưởng; Đại diện cấp ủy Đảng

§  Khoản chênh lệch thu chi được dành lập quỹ dự trữ tài chính bắt buộc, đầu tư cơ sở vật chất và hoàn lại vốn vay, vốn góp.

Luật Giáo dục 2005 Định nghĩa lại 3 hình thức sở hữu đối   với các trường   trong hệ thống giáo dục quốc dân: công lập, dân lập, tư   thục (Điều 48) § Khẳng định quyền được chia “thu nhập còn   lại” (thực chất   là lợi nhuận) của các trường dân lập và tư thục cho thành viên góp vốn theo tỷ lệ vốn góp (Điều 66)

§ Khẳng định quyền sở hữu của thành viên góp vốn đối với tài sản, tài chính của trường tư thục; quyền sở hữu tập thể của cộng đồng dân cư cơ sở đối với tài sản, tài chính của trường dân lập (Điều 67)

§ Xác lập Vai trò của Hội đồng quản trị (Điều 53), là tổ chức đại diện duy nhất có quyền sở hữu của trường.

 

Ngày 18/4/2005 Nghị quyết 05/2005/NQ-CP Chủ trương đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao. §  Quyền sở hữu của các cơ sở NCL được xác định theo Bộ luật Dân sự.

§  Cơ sở NCL có thể hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận hoặc theo cơ chế lợi nhuận nhưng Nhà nước khuyến khích phát triển các cơ sở phi lợi nhuận. Đồng thời Chính phủ cũng khẳng định sẽ có các chính sách ưu đãi (về đất đai, thuế, đào tạo nhân lực) cho các cơ sở NCL, đặc biệt là các cơ sở phi lợi nhuận.

ngày 17/1/

2005

Quyết định số 14/2005/QĐ-TTg Quy chế tổ chức và hoạt động của trường ĐHTT

 

§ Coi ĐHTT như một công ty cổ phần, thừa nhận quyền sở hữu toàn bộ   tài sản của   trường là thuộc sở hữu của các nhà đầu tư (Điều 35).

§ Thu nhập còn lại sau khi thực hiện nghĩa vụ và trích lập quĩ, được phân chia cho các thành viên góp vốn theo tỷ lệ vốn góp (Điều 36)

Ngày 2/8/

2006

Nghị định số 75/2006/NĐ-CP của Chính phủ Hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục §  Hai loại hình trường ĐH bán công và dân lập bị xoá bỏ, chỉ còn một loại hình trường đại học NCL duy nhất là trường ĐHTT

§  Quy định đối tượng tham gia Hội đồng quản trị ĐHTT là những người góp vốn xây dựng trường (Điều 24).

 

Ngày 29/5/

2006

Quyết định số 122/2006/QĐ-TTg. của Thủ tướng Chính phủ

 

Chuyển toàn bộ 19 trường đại học dân lập qua loại hình ĐHTT §  Yêu cầu việc chuyển đổi phải bảo đảm quyền lợi chính đáng của những người đã có đóng góp thực sự trong quá trình hình thành và phát triển trường, quyền lợi của người lao động và quyền lợi của người học.

§  Không quy định rõ nhưng có hàm ý “đóng góp” về mặt chất xám

Ngày 30/5/

2008

Nghị định số 69/2008/NĐ-CP của Chính phủ Có chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường. Quy định nhiều ưu đãi về đất đai và về thuế
Ngày 17/4/

2009

Quyết định số 61/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Quy chế tổ chức và hoạt động ĐHTT; thay thế Quy chế cũ ban hành năm 2005 § Quy định việc thành lập trường ĐHTT phải có ít   nhất từ 3   thành viên (tổ   chức hoặc cá nhân)   tham gia góp   vốn điều lệ (Điều 7)

§ Khống chế   “mỗi thành viên   chỉ

được tham gia góp vốn điều lệ ở không   quá 2 trường   đại học, cao đẳng tư thục”. Khống chế tỷ lệ góp vốn cao nhất của mỗi thành viên là 51% so với vốn   điều lệ của   trường (Điều 7) nhằm   chống tình trạng thao   túng của một   cổ đông chiếm tỷ lệ lấn   át. Tuy nhiên,   Điều 9 lại cho phép một cá nhân nắm giữ 51% vốn điều lệ thì sẽ nắm quyền quyết định tất   cả.

§     Đại hội   đồng cổ đông   chưa được khẳng định là cơ quan quyền lực cao nhất, và không được liệt kê trong cơ cấu tổ chức trường ĐHTT   (Điều 8 và   Điều 9)

§     Tài sản là vốn góp được công nhận sở hữu tư nhân. Tài sản tăng thêm thuộc sở hữu chung của trường

Ngày 16/7/

2010

Thông tư số 20/TT-GDĐT Quy định nội dung, trình tự, thủ tục chuyển đổi trường đại học dân lập sang loại hình trường ĐHTT. §  Tài sản tăng thêm được coi là sở hữu chung không chia, giao cho HĐQT theo nguyên tắc “bảo tồn, phát triển”

§  Căn cứ để được công nhận là “người góp vốn” là tiền bạc, đất đai và vật dụng mà người đó mang vào trường, không tính đến các loại “vốn trừu tượng” như trí tuệ, công sức của các nhà giáo dục, nhà khoa học, nhà quản lý.

Ngày 10/11/2011 Quyết định số 63/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Sửa đổi và bổ sung Quy chế tổ chức và hoạt động ĐHTT

 

§  Khẳng định Đại hội đồng cổ đông là cơ quan có quyền quyết định cao nhất của trường,   tương tự như   Luật

doanh nghiệp

§  Thành viên HĐQT phải là cổ đông có số cổ phần đóng góp đạt mức cần thiết theo quy định của từng trường” (Điều 10 Khoản 2). Quy định này đã loại giới chuyên môn ra khỏi cơ cấu quyền lực nếu họ không có nhiều tiền làm vốn góp

§  Tài sản tăng thêm được coi là sở hữu chung không chia

Ngày 18/6/2012 Luật GDĐH do Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ 1/1/2013 Thừa nhận sự phân biệt giữa ĐHTT vì lợi nhuận và không vì lợi nhuận §  Cơ sở GDĐH tư thục và cơ sở GDĐH có vốn đầu tư nước ngoàihoạt động không vì lợi nhuận là cơ sở GDĐH mà phần lợi nhuận tích lũy hằng năm là tài sản chung không chia, để tái đầu tư phát triển cơ sở; các cổ đông hoặc các thành viên góp vốn không hưởng lợi tức hoặc hưởng lợi tức hằng năm không vượt quá lãi suất trái phiếu Chính phủ (Khoản 7 Điều 4).

§  Thành viên hội đồng quản trịcủa ĐHTT bao gồm 2 loại (a) Đại diện của các tổ chức, cá nhân có số lượng cổ phần đóng góp ở mức cần thiết theo quy định; và (b) Hiệu trưởng; đại diện cơ quan quản lý địa phương nơi cơ sở GDĐH có trụ sở; đại diện tổ chức Đảng, đoàn thể; đại diện giảng viên (Khoản 3 Điều 17).

 

 

[1]Phạm Thị Ly, “Khoảng trống về chính sách nhìn từ vụ việc Đại học Hùng Vương”. Thời báo Kinh tế Saigon số ra ngày 9/1/2014, trang 58-60.

[2]Lâm Quang Thiệp, “Giáo dục đại học Việt Nam – Vài nét phác họa”, trong “Một số vấn đề về Giáo dục học Đại học”, NXB ĐHQG HN, 2004

[3] Xem bảng Phụ lục

[4] Dương Tấn Diệp. “Quyền sở hữu tài sản các trường ĐH-CĐ ngoài công lập theo quan điểm phát triển”. Tạp chí PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 5 (15) – Tháng 7-8/2012.

[5] Xem thêm Lê Vinh Danh.“Phải xem ĐH tư thục như một doanh nghiệp dịch vụ”. Vietnam net ngày 18-2-2004. Nguồn: http://vnn.vietnamnet.vn/giaoduc/vande/2004/02/48941/