Phạm Thị Ly (2014)
(Bài đăng Thời báo Kinh tế Saigon ngày 08.08.2014)

Phía sau câu chuyện tranh giành quyền lãnh đạo ở ĐH Hoa Sen, là một vấn đề sâu xa hơn: liệu có thể xem trường ĐH là một doanh nghiệp, vận hành theo những quy tắc của doanh nghiệp, hay nó phải được xem là một doanh nghiệp đặc biệt được vận hành trong những khuôn khổ đặc biệt khác với các doanh nghiệp thông thường? Hay nó không thể được xem như một doanh nghiệp?

Mâu thuẫn trong chính sách

Hiện nay, về mặt pháp lý cũng như trong thực tế, tất cả các trường ĐH ngoài công lập ở Việt Nam đang là các doanh nghiệp vì lợi nhuận trên mọi phương diện. Điều không bình thường là tất cả các trường đều tự cho mình là không vì lợi nhuận. Những bước diễn tiến chính sách về GDĐH ngoài công lập (NCL) từ năm 1998 đến nay đã bộc lộ rõ sự mâu thuẫn giữa tính chất thị trường của GDĐH tư và mong muốn của nhà nước giữ khu vực này trong vòng kiểm soát không để nó tự do hóa và thương mại hóa.

Gần hai mươi năm sau ngày thống nhất đất nước, Quy chế đầu tiên về trường ĐH tư thục mới được Thủ tướng Chính phủ ban hành vào năm 1993. Tuy vậy, nó đã không được đưa vào cuộc sống. Một năm sau Bộ GD-ĐT mới ban hành Quy chế tạm thời về trường ĐH dân lập và Quy chế tạm thời trường đại học bán công. Đến năm 2000 thì có Quy chế chính thức. Các văn bản này đã thể hiện một quan điểm dè dặt đối với sở hữu tư nhân và phân chia lợi nhuận. Có thể nói mô hình bán công và dân lập dựa trên nền tảng sở hữu tập thể và có nhiều yếu tố phi lợi nhuận, vì nhà nước quy định phần chênh lệch thu chi phải dành cho quỹ dự trữ bắt buộc, đầu tư cơ sở vật chất; trả lãi và hoàn trả vốn góp, vốn vay. Điều này thể hiện mối e ngại với tư nhân hóa và thương mại hóa giáo dục, e rằng nó sẽ khiến lĩnh vực giáo dục tuột khỏi tầm kiểm soát của nhà nước.

Bước ngoặt đối với GDĐH NCL là Luật Giáo dục 2005 và Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 2/8/2006 của Chính phủ, trong đó 2 loại hình trường ĐH bán công và dân lập bị xoá bỏ, chỉ còn một loại hình trường đại học NCL duy nhất là trường đại học  tư  thục (ĐHTT). Trong Quy  chế  tổ chức và hoạt động của trường ĐHTT được  ban  hành  theo Quyết định 14/2005/QĐ-TTg ngày 17/01/2005, các  khái niệm “Góp vốn”, “Phần vốn góp”, “Vốn điều lệ”, “Vốn có quyền biểu quyết”, “Thành viên sáng lập’’, “Đại hội đồng cổ đông”, “Hội đồng quản trị”vốn là  những  khái  niệm  gắn  liền  với doanh nghiệp, lần đầu tiên được sử dụng cho lĩnh vực giáo dục đào tạo (Điều 3). Điều này thể hiện rất rõ quan điểm xem trường tư thục là một doanh nghiệp vì lợi nhuận.  Toàn  bộ  tài  sản  của  trường thuộc sở hữu của các nhà đầu tư (Điều 35). Thu nhập còn lại sau khi thực hiện nghĩa vụ và trích lập quĩ, được phân chia cho các thành viên góp vốn theo tỷ lệ vốn góp (Điều 36).  Cổ  đông  có  quyền  chuyển nhượng và rút vốn. Trong trường hợp  nhà  trường  bị  giải  thể,  việc xử lý về tài chính, tài sản được áp dụng theo quy định của pháp luật về giải thể doanh nghiệp.

Theo các văn bản quy phạm pháp luật, thì từ năm 2006 loại hình bán công và dân lập đã bị xóa sổ, chỉ còn hai loại hình là công lập và tư thục, và Quy chế ĐHTT chỉ bao hàm một mô hình duy nhất là mô hình vì lợi nhuận không khác gì các doanh nghiệp. Điều này gây cảm giác bất an, vì vậy từ đó đến nay vấn đề phân biệt giữa trường vì lợi nhuận và không vì lợi nhuận nhiều lần đã được đặt ra. Tại Nghị quyết 05 Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan “nghiên cứu làm rõ những vấn đề về sở hữu, tính chất lợi nhuận và phi lợi nhuận, trách nhiệm của các cơ sở và hình thức xã hội hoá trong từng lĩnh vực, kiến nghị các cơ chế, chính sách phù hợp”. Tháng 1/2006 Thủ tướng Chính phủ lại có Chỉ thị 193 yêu cầu trình cơ chế phi lợi nhuận vào cuối năm đó và trong 2 năm (2008 và 2009) một lần nữa cơ chế này lại được trao đổi khi dự thảo Nghị định hợp tác đầu tư về giáo dục với nước ngoài. Đoàn giám sát quốc hội 5/2010 cũng kiến nghị đề xuất Chính phủ sớm ban hành các tiêu chí xác định trường ĐH, CĐ ngoài công lập hoạt động theo nguyên tắc “không vì lợi nhuận”, và “vì lợi nhuận hợp lý”. Mãi đến khi Luật GDĐH ban hành ngày 18/6/2012 và có hiệu lực từ 1/1/2013, thì lần đầu tiên, “không vì lợi nhuận” mới được định nghĩa là “phần lợi nhuận tích lũy hằng năm là tài sản chung không chia, để tái đầu tư phát triển cơ sở giáo dục đại học; các cổ đông hoặc các thành viên góp vốn không hưởng lợi tức hoặc hưởng lợi tức hằng năm không vượt quá lãi suất trái phiếu Chính phủ”.Tuy nhiên, định nghĩa này chưa đầy đủ, vì nó đã bỏ qua vấn đề gốc rễ là sở hữu và cơ cấu quyền lực, như chúng tôi đã nêu ra trong một bài viết trước đây.

Đồng thời, Luật GDĐH 2013 cũng quy định thành viên Hội đồng Quản trị trường ĐHTT bao gồm hai loại  (a) Đại diện của các tổ chức, cá nhân có số lượng cổ phần đóng góp ở mức cần thiết theo quy định; và (b) Hiệu trưởng; đại diện cơ quan quản lý địa phương nơi cơ sở GDĐH có trụ sở; đại diện tổ chức Đảng, đoàn thể; đại diện giảng viên. Điều này có lẽ là nhằm làm giảm tính chất “vì lợi nhuận” của trường ĐHTT, và tăng quyền lực của giới học thuật. Tuy nhiên, nó tiềm tàng khả năng nảy sinh xung đột rất cao giữa những người góp vốn và không góp vốn nhưng lại có quyền quyết định như nhau.

Quyết định số 61/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế ĐHTT thay thế Quy chế cũ đã quy định “Tài sản là vốn góp được công nhận sở hữu tư nhân. Tài sản tăng thêm thuộc sở hữu chung của trường” nhằm mục đích làm giảm tính chất “vì lợi nhuận” của các trường, cũng thể hiện mâu thuẫn giữa một bên là công nhận mục đích tìm kiếm lợi nhuận của nhà đầu tư, một bên là hạn chế mức độ lợi nhuận mà họ có thể sở hữu. Nếu điều này được thực hiện, tức là tài sản tăng thêm không được công nhận sở hữu cá nhân, đầu tư vào giáo dục sẽ không bình đẳng với đầu tư vào các lãnh vực khác. Phần tài sản tăng thêm này thuộc quyền quản lý của HĐQT, trong khi HĐQT lại bao gồm cả những người không góp vốn (theo Khoản 3 Điều 17, Luật GDĐH) thì không xảy ra tranh chấp mới là chuyện lạ!

Nguồn gốc nảy sinh xung đột

          Chính vì luật pháp và chính sách có những mâu thuẫn trong quan điểm và thể hiện sự lúng túng trong cách xử lý mối quan hệ giữa tính chất dịch vụ, vì lợi nhuận với tính chất phục vụ lợi ích công của khu vực tư trong GDĐH, cho nên đã nảy sinh tình trạng tất cả các trường NCL tuy hoạt động trong một khuôn khổ luật pháp về cơ bản giống với luật doanh nghiệp, và trong thực tế hành xử giống như mọi doanh nghiệp, nhưng vẫn tự cho mình là phi lợi nhuận.

Trong trường hợp Việt Nam, cần nhấn mạnh một điều là tính chất vì lợi nhuận hay phi lợi nhuận không thể xác định chỉ bằng mức chia lợi nhuận như Luật GDĐH 2012 đã quy định, mà còn phải xem xét tính chất sở hữu và cơ cấu quyền lực của nhà trường, bởi lẽ việc phân chia lợi nhuận chỉ là kết quả của tính chất sở hữu và cơ cấu quyền lực ấy. Dựa trên ba yếu tố: mức chia lợi nhuận (gấp bốn lần so với lãi suất trái phiếu, chưa kể lợi nhuận do cổ phiếu tăng giá và cổ phiếu thưởng); tính chất sở hữu (là sở hữu tư nhân của các cổ đông, cổ phiếu có thể chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, hoàn toàn giống các công ty cổ phần); và cơ cấu quyền lực (HĐQT do Đại hội cổ đông bầu ra theo nguyên tắc người nào nắm nhiều cổ phần hơn thì có khả năng chi phối quyết định nhiều hơn), thì Hoa Sen là trường 100% vì lợi nhuận từ xưa đến nay, dù Điều lệ nhà trường có tuyên bố rõ tính chất phi lợi nhuận. Vì lợi nhuận hay phi lợi nhuận không thể được xác định dựa trên lời tuyên bố, mà phải dựa vào tính chất sở hữu, cách vận hành, cơ cấu quyền lực và cách sử dụng lợi nhuận của nhà trường. Bởi lẽ Hoa Sen chưa bao giờ là trường phi lợi nhuận, cho nên không thể có cuộc chiến giữa vì lợi nhuận và phi lợi nhuận ở đây.

Vấn đề là, một trường ĐH không thể nào vừa vì lợi nhuận vừa không vì lợi nhuận. Khung pháp lý hiện hành đã trộn lẫn hai loại hình này, vừa đặt các trường vào khuôn khổ vì lợi nhuận lại vừa hạn chế tính chất vì lợi nhuận của họ. Thêm vào đó, áp lực tâm lý xã hội đòi hỏi các trường phải phi lợi nhuận trên một nền tảng số không về truyền thống hiến tặng cho đại học, là một đòi hỏi không thực tế.

Vì không thừa nhận trường ĐH có thể hoạt động thực sự như một doanh nghiệp, và vì tâm lý muốn kiềm chế tính chất vì lợi nhuận của các trường, nhà nước đã quy định hội đồng quản trị của các trường NCL buộc phải có một số thành phần đương nhiên. Chính sách này xuất phát từ mục đích tốt, muốn cho giới học thuật và những người có trách nhiệm bảo vệ lợi ích công có tiếng nói và tham gia cơ cấu ra quyết định của các trường NCL để giúp cho nó không bị thương mại hóa làm tổn hại lợi ích công. Tuy nhiên, nó mâu thuẫn với tính chất của một trường vì lợi nhuận. Đã là trường vì lợi nhuận, mà người đầu tư lại không được toàn quyền quyết định, thì đầu tư vào giáo dục sẽ không công bằng so với đầu tư vào các lãnh vực khác. Một hệ quả nguy hiểm hơn, là trong cơ cấu đó, quyền lực phần lớn sẽ nằm trong tay những người điều hành. Nhà đầu tư, do e sợ rủi ro, sẽ trực tiếp nắm quyền điều hành, và trong nhiều trường hợp sẽ tạo ra lỗ hổng về năng lực lãnh đạo. Thêm vào đó, một cơ cấu quyền lực như thế tiềm tàng một rủi ro rất lớn. Bởi vì, vừa là nhà đầu tư, vừa nắm quyền điều hành, họ tạo ra một quyền lực tuyệt đối và không bị kiểm soát, là điều sẽ hủy hoại bản chất cốt lõi của trường đại học: trường đại học là nơi mà tiếng nói thẩm quyền thuộc về tri thức và chân lý chứ không thuộc về đồng tiền. Bởi vậy, nó tiềm tàng khả năng đưa nhà trường đến chỗ xung đột và bất ổn.

Trường đại học là của ai?

Vấn đề cốt lõi của mọi tranh chấp đã diễn ra là xung đột lợi ích, và cái gốc của những xung đột đó là vấn đề sở hữu và cơ cấu quyền lực. Các văn bản pháp luật hiện hành đã minh định nhà đầu tư là chủ sở hữu của các trường NCL, do đó nó thực chất là các doanh nghiệp vì lợi nhuận. Các trường và xã hội phải thừa nhận điều này thay vì bắt các trường phải gánh nghĩa vụ cao cả (nhưng bất khả thi) là bất vụ lợi. Bất vụ lợi bản thân nó hoàn toàn đối lập với khái niệm doanh nghiệp. Mục đích của doanh nghiệp là tìm kiếm lợi nhuận, và để có lợi nhuận đó, nó phải phục vụ khách hàng bằng các loại dịch vụ mà nó cung ứng, trong đó có đào tạo đại học.

Nghị định 141/NĐ-CP ban hành ngày 24.10.2013 đã nêu rõ các điều kiện để được công nhận là trường phi lợi nhuận, tuy nhiên vẫn không đề cập đến điều cốt lõi nhất là quyền sở hữu và cơ cấu quyền lực, vì vậy vẫn không giải quyết được rốt ráo vấn đề. Hơn thế nữa, nghị định này còn quy định về tài sản không phân chia với mọi trường NCL bất kể vì lợi nhuận hay không vì lợi nhuận, tức là vẫn tiếp tục lẫn lộn hai loại hình này. Với những gì quy định về trường không vì lợi nhuận trong văn bản này, quyền lực nằm trong tay những người điều hành lại càng lớn, và đàng sau quyền lực là tiền. Cách duy nhất để phân định dứt khoát giữa vì lợi nhuận và phi lợi nhuận là tính chất sở hữu và cơ cấu quyền lực: trường vì lợi nhuận thuộc sở hữu tư nhân, cổ phần có thể chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp giống như các doanh nghiệp, HĐQT do cổ đông bầu ra theo nguyên tắc đối vốn; trường không vì lợi nhuận thuộc sở hữu cộng đồng, không có cổ phần, không có cổ tức, HĐQT được người sáng lập chỉ định dựa trên nguyên tắc bao gồm các bên liên quan và nhằm mục đích bảo vệ lợi ích công, và chính hội đồng này sẽ lựa chọn thành viên bổ sung về sau trên nguyên tắc công khai. Người sáng lập không giữ quyền sở hữu, vì vậy không thể chuyển nhượng hay để thừa kế. Chỉ có trường phi lợi nhuận mới được hưởng ưu đãi của ngân sách về mặt đất đai hay nguồn lực.

Phân định rõ ràng vì lợi nhuận và phi lợi nhuận sẽ tránh cho các trường gánh nặng đạo đức giả. Quan trọng hơn, sự phân định này sẽ xác lập sở hữu tư nhân rõ ràng, dứt khoát, và đầy đủ cho các nhà đầu tư, để họ an tâm đầu tư lâu dài. Nếu nhược điểm chính của các trường ĐH công lập hiện nay là thiếu động lực để đổi mới, thì nhược điểm chính của các trường NCL là tầm nhìn ngắn hạn. Tầm nhìn ngắn hạn này là hệ quả của một chính sách thiếu nhất quán và một quan điểm lẫn lộn giữa lợi ích công và mục đích tư. Tầm nhìn ngắn hạn đẻ ra lối làm việc chụp giựt là điều vô cùng tổn hại cho trường ĐH. Một khi có động lực để đầu tư dài hạn, khu vực trường NCL vì lợi nhuận hoàn toàn có khả năng hoạt động có hiệu quả và cung ứng một dịch vụ có chất lượng. Nhà đầu tư, để bảo vệ lợi ích dài hạn của mình, sẽ tìm được điểm cân bằng giữa thẩm quyền của giới học thuật và thẩm quyền của người quản lý, bởi điều này quyết định chất lượng của nhà trường, tức cũng có nghĩa là quyết định lợi ích của chính họ.